Ban Tam Bảo trong chùa gồm những ai?

Nội dung chính [Hiện]

Trong hành trình tìm hiểu về văn hóa và tâm linh Phật giáo, không thể không nhắc đến Ban Tam bảo - một trong những yếu tố trung tâm và thiêng liêng nhất của ngôi chùa. Được biết đến dưới nhiều tên gọi như Tòa Thượng điện hay Đại hùng Bảo điện, Ban Tam bảo không chỉ là một cấu trúc kiến trúc đặc sắc mà còn là một minh chứng sinh động cho hành trình tu hành và đắc đạo của Đức Phật. Cùng với những pho tượng Phật đặt trên các bệ xây cao dần theo từng cấp độ, nó còn là sự hiện thân của những triết lý sâu sắc mà đạo Phật đã truyền lại cho nhân loại. Hãy cùng chúng tôi khám phá ý nghĩa sâu xa và vẻ đẹp tâm linh của Ban Tam bảo, nơi mỗi tượng Phật không chỉ là biểu tượng của sự an lạc mà còn là nguồn cảm hứng bất tận cho mọi người trong việc hướng tới giác ngộ và giải thoát.

Tam Bảo là gì trong Phật Giáo?

Trong các giáo lý của Phật giáo, "Tam bảo" là khái niệm cốt lõi thể hiện ba ngôi báu tối thượng, bao gồm Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Trong cuộc sống nhân gian, con người thường hướng tới những thứ vật chất như vàng bạc, châu báu, coi chúng như là những thứ quý giá có thể đem lại hạnh phúc và sự thỏa mãn cho bản thân. Tuy nhiên, đối với những người theo đạo Phật, những giá trị vật chất ấy lại không thể nào sánh bằng giá trị tinh thần của Tam bảo, bởi lẽ dù cho có bao nhiêu của cải trên đời này cũng không thể nào giải thoát con người khỏi quy luật sinh, lão, bệnh, tử, hay từ vòng luân hồi của tam giới, tam đồ, lục đạo.

Chỉ có Tam bảo - ba ngôi báu quý giá của Phật giáo - mới có sức mạnh vô song để hướng dẫn chúng sinh vượt qua khổ đau và dẫn dắt họ đến bến bờ của sự an lạc và giải thoát. Tam bảo như những ngọn đèn soi sáng cho chúng sinh tìm thấy niềm tin, con đường tu tập để từ đó vượt qua mọi đau khổ và thu về niềm hoan hỉ vô biên.

Ban Tam Bảo Trong Chùa

Và chỉ có ba ngôi báu của của Phật giáo mới đủ sức dẫn dắt những chúng sinh thoát khỏi những khổ đau ấy. Ba ngôi báu này giống như ngọn đèn sáng để chúng sinh tin và làm theo, từ đó thoát khỏi sự đau khổ, tìm được sự hoan hỉ.

Phật bảo

Phật bảo, hay còn được gọi là "ngôi báu thứ nhất" trong Phật giáo, chính là Đức Phật - vị giáo chủ, hình tượng tối cao của sự giác ngộ và giải thoát. Đức Phật không chỉ là một vị thầy vĩ đại mà còn là nguồn cảm hứng cho tất cả những ai theo đuổi con đường tu tập và tìm kiếm chân lý.

Trong cuộc đời của mình, Đức Phật, hay còn được biết đến với tên gọi Thích-ca Mâu-ni, đã trải qua một hành trình tu tập gian khổ, từ bỏ cuộc sống hoàng gia và tất cả những gì vật chất để tìm kiếm lẽ sống, sự thật về cuộc đời và vũ trụ. Cuộc tìm kiếm này cuối cùng đã đưa Ngài đến với trạng thái giác ngộ dưới gốc cây Bodhi, nơi Ngài nhận ra được chân lý và đạo giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử, nơi khổ đau không còn và niềm vui trọn vẹn.

Đức Phật là người đầu tiên chứng ngộ được Bốn Chân Lý cao quý, mở ra Con Đường Tám Nguyên đạo, dẫn dắt con người đến với Niết bàn - trạng thái giải thoát hoàn hảo, không còn bị ràng buộc bởi dục vọng hay bất kỳ khổ đau nào. Ngài trở thành tấm gương sáng chói cho việc tu tập, là bậc thầy của cả loài người (Nhơn Loại) và cả các vị thần trong cõi trời (Chư Thiên), hướng dẫn nhân loại thoát khỏi mê lạc và tiến về ánh sáng của trí tuệ và từ bi.

Tên gọi "Phật" xuất phát từ từ "Buddha" trong tiếng Phạn, được người Trung Hoa phiên âm và tiếp nhận, mang ý nghĩa "bậc giác ngộ" - người đã tỉnh thức hoàn toàn và hiểu rõ mọi quy luật của vũ trụ và cuộc sống. Đức Phật không chỉ phát hiện ra con đường giải thoát cho riêng mình mà còn chia sẻ nó với tất cả chúng sanh, để mỗi người có cơ hội giảm bớt khổ đau và tìm thấy hạnh phúc thực sự.

Pháp bảo

Pháp bảo là một trong ba ngôi báu quan trọng nhất của Phật giáo, đại diện cho toàn bộ giáo lý và phương pháp tu tập mà Đức Phật đã chứng ngộ và sau đó truyền dạy cho chúng sanh. Chân lý giác ngộ của Phật không chỉ là một bộ sưu tập các giáo thuyết lý thuyết, mà nó còn là một hệ thống thực hành, một con đường thực tiễn mà qua đó, mỗi người có thể đi từ sự mê mờ, vô minh đến sự tỉnh thức, giác ngộ và giải thoát.

Pháp trong Phật giáo bao gồm nhiều phần, từ Bốn Chân Lý đau khổ, Tám Nguyên Đạo dẫn đến cách sống chánh niệm và từ bi, cho đến các phương pháp thiền định và quán chiếu sâu sắc. Nó cung cấp một khuôn khổ để hiểu rõ về nguồn gốc của khổ đau trong cuộc sống và cách để chấm dứt chúng thông qua việc thực hành các nguyên tắc đạo đức, tự nhận thức và phát triển trí tuệ.

Pháp bảo được ví như "diệu dược nhiệm màu" có khả năng chữa trị "Tâm bệnh Phiền não" của chúng sanh, những căn bệnh tinh thần như tham, sân, si, kiêu mạn và hoài nghi, những nguyên nhân chính dẫn đến khổ đau. Các giáo pháp của Đức Phật cho chúng ta biết làm thế nào để nhìn nhận và đối diện với những khó khăn và đau khổ trong cuộc sống, và cách để giảm bớt chúng thông qua sự hiểu biết và thay đổi từ bên trong.

Pháp bảo không chỉ là hướng dẫn về cách sống một đời sống thanh cao và có ý nghĩa, mà còn là nền tảng để xây dựng một xã hội hòa bình và công bằng. Nó phản ánh sự tôn trọng đối với mọi sinh mệnh và nhấn mạnh sự cần thiết của lòng từ bi và trí tuệ trong mọi quan hệ.

Vì những giá trị sâu sắc và thiết thực này, Pháp bảo được tôn kính là "ngôi báu thứ hai". Người tu tập Phật giáo coi việc thấu hiểu và áp dụng Pháp vào cuộc sống hàng ngày là một phần quan trọng của con đường tâm linh, giúp họ sống một cuộc đời có ý nghĩa, hướng tới sự giải thoát và hạnh phúc vĩnh cửu.

Tăng bảo

Tăng bảo, hay còn gọi là "ngôi báu thứ ba" trong truyền thống Phật giáo, không chỉ là cộng đồng những người xuất gia mà còn là biểu tượng cho sự đoàn kết, tập thể tu tập chung một lòng hướng đến sự giác ngộ và giải thoát. Những người tu tập này, được gọi là chư tăng, đã chọn cách rời bỏ cuộc sống đầy rẫy cám dỗ của thế gian để dành trọn cuộc đời theo đuổi lối sống giản dị, thanh cao theo giáo pháp của Đức Phật.

Chư tăng không chỉ đơn thuần là những cá nhân tu tập mà họ còn tụ họp lại thành một cộng đồng tu sĩ, hay Tăng-già (Sangha theo tiếng Phạn), nơi mà họ cùng nhau thực hành, hỗ trợ lẫn nhau trong hành trình tâm linh. Tăng-già là nơi nuôi dưỡng tinh thần đồng đội, tạo ra một môi trường thuận lợi để thực hành các giáo lý của Phật, từ việc thiền định, tụng kinh, giảng dạy cho đến các công việc phục vụ cộng đồng.

Trong cộng đồng này, mỗi cá nhân tu sĩ đều thể hiện sự quảng đại, khiêm nhường và từ bi thông qua việc thực hành lời Phật dạy và qua đó, họ trở thành tấm gương sáng cho người khác noi theo. Chư tăng cũng đảm nhận vai trò quan trọng trong việc truyền bá giáo pháp, hướng dẫn và dắt dìu chúng sanh trên con đường tu tập, giúp họ thoát khỏi vòng xoáy của nghiệp chướng, phiền não, và mê mờ.

Các vị tăng là những người thay mặt cho chư Phật qua ba thời kỳ - quá khứ, hiện tại và tương lai - đảm nhận trách nhiệm hướng dẫn chúng sanh thoát khỏi "nẻo tối" của sự mê lạc và "đường mê" của vô minh. Họ dùng trí tuệ và lòng từ bi mà mình đã được tu luyện qua việc thực hành Phật pháp để giúp chúng sanh tìm thấy con đường "dứt khổ", tức là đạt được sự giải thoát và an lạc nội tâm.

Do những đóng góp to lớn này cho sự lan tỏa và bảo tồn giáo lý của Đức Phật, cùng với việc giúp đỡ chúng sanh trên hành trình giác ngộ, Tăng bảo được tôn kính và trân trọng, coi như một trong những "ngôi báu" vô cùng quý giá của Phật giáo.

Ban Tam Bảo thờ gồm những ai và bố trí ra sao?

Trong chính điện thờ Phật hay còn gọi là Phật điện, Đại hùng bảo điện, Ban Tam Bảo, triết lý vô thường của Phật giáo được đặt lên hàng đầu thể hiện qua tam thân Phật là “Pháp thân”, “Báo thân” và “Ứng thân”. Cách bài trí các tượng Phật ở chính điện theo đúng ý nghĩa ấy.

Tòa Thượng Điện

Lớp thứ nhất thờ “Pháp thân Phật”

Trên cùng là tượng Tam thế, tên đầy đủ là Tam thế tam thiên Phật nghĩa là ba nghìn vị Phật thời quá khứ, hiện tại, tương lai, trong đó Thiên (ngàn) là con số phiếm chỉ không đếm được. Hàng tượng này gồm ba pho, thường có một dáng chung là ngồi kết già, sự khác nhau chỉ là các dáng tay kết ấn, bên trái là Quá khứ thế, bên phải là Vị lai thế, ở giữa là Hiện tại thế.

Pháp Thân Phật

Lớp thứ hai thờ “Báo thân Phật”

Hàng tượng Di đà tam tôn mang tính chất tuyên ngôn cho Phật giáo bởi đại điện cho từ tâm và trí tuệ. Trong đó, Phật A Di Đà ở giữa thể hiện tám tính (bát đại), phân thân biểu hiện thành Quan thế âm Bồ tát bên trái (bốn tính thuộc từ tâm là đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả) và Đại thế chí Bồ tát bên phải (bốn tính thuộc trí tuệ là đại hùng, đại lực, đại trí, đại dũng).

Báo Thân Phật

– Phật A di đà (ngồi giữa). Phật A di đà được tạc trong tư thế toạ thiền, ngồi xếp bằng, hai tay đặt giữa lòng đùi, khuôn mặt đôn hậu, mắt nhìn xuống suy tư, miệng hơi mỉm cười Phật được tạc to nhất trong các nhóm tượng tuỳ theo khuôn khổ từng chùa. Phật A Di Đà vị Phật của thế giới Tây phương cực lạc, nơi chỉ có vui mà không có khổ, tiếp dẫn người có công đức sang thế giới Tây phương cực lạc.

– Bồ Tát Ðại Thế Chí cầm cành hoa sen màu xanh đứng bên tay phải Ðức Phật A Di Ðà. Đây là vị hộ pháp giúp việc cứu độ cho Phật A Di Đà, giáo hóa chúng sinh, tích đức hành thiện, trừ gian diệt ác. Bồ Tát Ðại Thế Chí biểu trưng cho đức tinh tấn và ánh sáng trí tuệ, nhờ vào trí tuệ có năng lực như ngọn đèn sáng rực, soi rọi các tà vọng thiện ác, thấy được vực sâu của tội ác trong thế gian một cách rõ ràng.. Ngài còn có danh hiệu là Ðắc Ðại Thế Chí Bồ Tát, Ðại Lực Ðại Thế Chí Bồ Tát, Ðại Tinh Tấn Bồ Tát hay Vô Biên Quang Bồ Tát.

Các danh hiệu của Bồ Tát Đại Thế Chí nói lên hạnh nguyện đại hùng, đại lực, đại tinh tấn và ánh sáng trí tuệ vô biên chiếu khắp mọi loài chúng sanh, có thể phá trừ vô minh, điều phục tham sân si, chuyển hóa phiền não thành bồ đề. Các vị Bồ Tát đều có từ bi, trí tuệ và ý chí xuất phàm như nhau, đó là nhân để tiến đến Phật quả.

– Bồ Tát Quán Thế Âm cầm nhành dương liễu và bình tịnh thủy đứng bên tay trái Đức phật A Di Đà. Quan Thế Âm bồ tát với một số sắc tướng và danh hiệu khác Quan Thế Âm vô uý, Quan Thế Âm Nam Hải, Quan Thế Âm nghìn mắt nghìn tay: là người luôn nghe tiếng kêu tha thiết từ tâm khảm chúng sinh trong trần gian mà tới cứu khổ. Mang lòng từ bi, nhân ái, vị tha và thánh thiện không phân biệt bất kỳ ai, nghĩa là người yêu thương tất cả chúng sanh trong thiên hạ.

Lớp thứ ba thờ “Ứng thân Phật”

Bộ tượng Thích ca liên hoa, với mô hình nhất Phật nhị tôn giả, Đức Thích Ca ngồi kết già ở giữa, tay giơ đóa sen, Ma Ha Ca Diếp bên trái, A Nan Đà bên phải.

Ứng Thân Phật

Lớp thứ tư thờ “Tượng Tuyết Sơn”

Tượng Tuyết Sơn

Tượng Tuyết Sơn mô tả quá trình bảy năm tu khổ hạnh không tìm được chân lý của Đức Thích Ca. Tạo hình tượng khắc khổ, đầu nhô lên hình sọ, mắt trũng sâu, chân tay gầy guộc, hiện rõ các đốt xương. Các nếp quần áo đổ dồn xuống dưới, như tăng vẻ tiều tụy của tượng, nhưng vẫn nhận thấy sự suy tư thanh thản trong ánh mắt xa xăm và toàn thân tĩnh tại, ung dung.

Lớp thứ năm thờ “Hoa Nghiêm Tam Thánh”

Bộ tượng Hoa Nghiêm Tam Thánh, tuy có mô hình nhất Phật nhị Bồ tát nhưng ở mỗi chùa lại có sự khác nhau. Ở chùa Tây Phương, bộ tượng này có niên đại thời Tây Sơn với Phật Di lặc ngồi giữa, hai bên là Đại Diệu Tường Bồ tát và Pháp Hoa Lâm Bồ tát. Ở một số chùa khác thì hai bên là Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát và Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, khi thì trong hình tướng nữ, cưỡi mãnh thú (voi và sư tử), khi thì trong hình tướng tăng nhân như ở chùa Hòe Nhai (Hà Nội), khi là hai vị Bồ tát cầm hoa sen hay pháp khí như ở chùa Bà Đá.

Lớp thứ sáu thờ “Tòa Cửu Long”

Tòa Cửu Long ở giữa, bên trái là Đế Thiên (Indra – Ngọc hoàng: vua của cõi trời sắc giới, cõi có hình tướng) và bên phải là Đế Thích (Brama: vua của cõi trời dục giới, cõi không còn hình tướng nhưng vẫn còn dục vọng, ham muốn). Tòa Cửu Long được xây dựng theo tích Thích Ca sơ sinh – một trong bốn tích quan trọng trong đời Phật (đản sinh, xuất gia, thành đạo và viên tịch). Trung tâm là Thái tử Tất Đạt Đa đản sinh trong hình dạng chú bé nhưng vẻ mặt nghiêm trang, tay chỉ lên trời, tay chỉ xuống đất. Xung quanh có chín con rồng liên kết tạo thành một hình khum, hướng phía mặt ra ngoài, mô tả các tầng trời, trên đó có các vị Phật ngồi kết già, các vị Bồ tát, Kim Cương Hộ pháp.

Văn khấn ban Tam Bảo

Văn khấn cầu tài lộc, cầu bình an ở ban Tam Bảo như sau:

Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!

– Con lạy chín phương trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương. – Con xin thành tâm kính lạy chư vị Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng, Hộ pháp Thiện thần, Thiên Long Bát Bộ.

Tín chủ con là…………………………………………………

Ngụ tại………………………………………………………….

Hôm nay là ngày….. tháng…..năm…………………………………………….

Tín chủ con thành tâm dâng hương hoa, phẩm oản, cùng sớ trạng (nếu viết sớ đặt trên mâm lễ vật) lên cửa mười phương thường trụ Tam Bảo.

Tín chủ con thành tâm kính lễ.

Đức Phật A Di Đà giáo củ cõi cực lạc phương Tây.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo chủ cõi Sa Bà.

Đức Phật Dược sư Lưu Ly giáo chủ coi phương Đông.

Đức Thiên thủ, Thiên nhãn, Ngũ bách danh tầm thanh cứu khổ cứu nạn, linh cảm Quan Thế Âm Bồ Tát.

Kính lạy Hộ pháp thiên thần chư thiện Bồ Tát kính xin chư vị rủ lòng từ bi, phù hộ độ trì cho con, nguyện được… (công danh, tài lộc, giải hạn, bình an…). Nguyện xin chư vị, chấp kỳ lễ bạc tâm thành (sớ trạng) chứng minh, chứng giám cho con được tai quan nạn khỏi, điều lành đem đến, điều dữ tiêu tan, phát lộc phát tài, gia chung mạnh khoẻ, trên dưới thuận hoà an khang thịnh vượng.

Chúng con người phàm trần tục lầm lỗi còn nhiều. Cúi mong Phật, Thánh từ bi đại xá cho con (và gia đình) được tai qua nạn khỏi, mọi sự tốt lành, sở cầu như ý sở nguyện tòng tâm.

Tín chủ con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!