Quan Hoàng Mười Nghệ An - Sự Tích Và Bản Văn Chầu Chính Chi Tiết

Nội dung chính [Hiện]

Ông Hoàng Mười hay còn được gọi là Quan Hoàng Mười. Trong tín ngưỡng thờ mẫu ông là vị quan thứ mười trong Thập vị ông hoàng. Tương truyền ông là con thứ mười của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Ông vốn là một thiên quan trên Thượng Đình. Nhận lệnh Vua Cha, ông đã giáng xuống hạ phàm, hóa thân làm người trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông dưới trần gian vẫn chưa được xác thực chính xác và có nhiều dị bản. Cứ tới ngày 10/10 Âm Lịch hằng năm, du khách thập phương lại tấp nập hành hương về chiêm bái cửa đền Ông Hoàng Mười. Với mong cầu được Ông phù hộ cầu tài lộc và cầu cho con em được đỗ đạt thành tài để làm rạng danh tổ tông. Để hiểu hơn rõ hơn về Quan Hoàng Mười cũng như các thánh tích về ngài. Mời các bạn tìm hiểu trong bài viết này.

Tượng Thờ Quan Hoàng Mười

Sự tích về Ông Hoàng Mười Nghệ An

Sự tích về Quan Hoàng Mười hiện nay có rất nhiều dị bản khác nhau. Tuy có nhiều câu chuyện khác nhau xoay quanh ông nhưng tựu chung lại đều khắc họa ngài là một người thanh liêm, chính trực hay giúp đỡ dân chúng. Sau đây chúng ta hãy cùng đi tìm hiều một vài câu chuyện được dân gian truyền lại nhé!

Quan Hoàng Mười giáng thế làm Lý Nhật Quang

Theo người xưa ghi chép rằng, ông hóa thân làm Uy Minh Vương Lý Nhật Quang (Tên húy: Lý Hoảng). Ông là con trai thứ 8 của vua Lý Thái Tổ. Lý Nhật Quang là anh em cùng cha khác mẹ với vua Lý Thái Tông.

Lý Nhật Quang từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh lỗi lạc, được vua cha dạy bảo nghiêm minh để trở thành rường cột quốc giá. Khi trưởng thành, ông được cử vào châu Nghệ An (tỉnh Nghệ An) lo việc thu thuế. Ông làm việc cần mẫn, thanh liêm, chính trực, được nhân dân tin tưởng. Sau đó ông được phong chức tri châu Nghệ An. Nhờ có ông, cuộc sống ở Nghệ An đang hỗn loạn, phức tạp, lầm than trở thành nơi yên bình, bách tính ổn định sinh sống.

Đặc biệt, ông còn góp công không nhỏ trong việc xây dựng trại Bà Hòa. Nhờ có trại kiên cố vững chắc, vua và quân yên tâm chiến đấu và đã đánh chiếm được Chiêm Thành.

Tuy được vua phong tước Vương nhưng ông vẫn rất cần mẫn và giản dị. Ông vẫn hết sức quan tâm đến cuộc sống người dân và sự phát triển kinh tế đất nước. Ông hướng dẫn nhân dân dệt lụa, dệt vải, làm nông,… Ông chính là tổ sư của nhiều nghề thủ công nghiệp tại Nghệ An. 

Khi mất, ông được nhân dân hai vùng Nghệ An, Hà Tĩnh lập đền thờ phụng ở rất nhiều nơi để bày tỏ công ơn. Chính tại đây đã ghi dấu sự tích đền ông Hoàng Mười.

Quan Hoàng Mười giáng thế làm tướng Nguyễn Xí

Tích này kể rằng, ông giáng thế làm tướng quân Nguyễn Xí. Tướng Nguyễn Xí là người có công xông pha trận mạc giúp vua dẹp quân thù nhà Minh.

Tướng Nguyễn Xí được vua trọng dụng, giao cho trấn giữ vùng đất quê nhà là Nghệ An, Hà Tĩnh. Ông luôn hết lòng vì dân, lo cho dân. Ông đã từng mở kho cứu trợ tiếp tế, sai quân đốn gỗ làm nhà cho dân khi vùng gặp hoạn nạn thiên tai.

Trong một lần đi thuyền trên sông, thuyền của ông bị nhấn chìm bởi một trận phong bão và ông đã hóa ngay trên sông Lam. Lúc đưa tiễn ông, trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã (có bản nói là xích điểu). Vua Lê Thánh Tông hết lòng thương tiếc vị tướng tài sai lập đền thờ ở Thượng Xá.Biết ơn trước tấm lòng đức độ, khoan dung của tướng Nguyễn Xí, người dân vùng này tôn ông làm Ông Mười (còn gọi là Ông Mười Củi). Với ý nghĩa số “mười” mang lại sự toàn vẹn giống như ông Mười là người văn võ song toàn, tài đức trọn vẹn.

Mặt khác, ông cũng là người con thứ Mười của Đức Vua cha Thủy Quốc Động Đình. 21 sắc phong ông được ban tặng đều được lưu giữ tại đền thờ ông.

Quan Hoàng Mười giáng thế làm tướng Lê Khôi

Một sự tích khác lại cho rằng, ông giáng trần làm tướng sĩ Lê Khôi – một công thần khai quốc nhà Lê Sơ. Ông cũng là tướng lĩnh trong cuộc chiến Lam Sơn lẫy lừng. Lê Khôi chính là cháu ruột của vua Lê Lợi, được vua giao chức trấn thủ Hóa Châu. Ông luôn hết lòng trấn thủ, giúp dân an yên ấm no. Bên canh đó, ông còn luôn đem quân tiếp ứng cho vua dẹp loạn quân Bế Khắc Thiệu, quân Chiêm Thành,… và lập được nhiều công lao cho nước nhà.Lê Khôi mất vào năm 1446 tại núi Nam giới, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

Nhiều lý lẽ nhận định rằng, ông Hoàng Mười giáng thế làm tướng Nguyễn Xí là hợp lý và chặt chẽ nhất. Nhưng nhiều quan điểm cho rằng, ông là hiện thân của nhiều vị tướng lỗi lạc và ông giáng trần nhiều lần khác nhau. Vì vậy không nên bó hẹp trong duy nhất một lần giáng thế.

Ai có căn Ông Hoàng Mười ?

Theo văn hóa tâm linh, số mệnh mỗi người khi sinh ra đều đã được định sẵn một phần. Những người có căn ông Hoàng Mười hoặc sát căn ông sẽ có những đặc điểm tương đồng với ông như:

Tính cách hào hoa và phong nhã.

Tâm hồn văn chương cao, bộc lộ rõ .

Đường công danh cao, thường đỗ đạt làm quan to.

Khi đến điện thánh hay xem hầu đồng, người đó sẽ rất say mê, gần như là u mê và có khi nhảy nhót hay khóc lóc theo giá đồng đó.

Đền thờ Ông Hoàng Mười

Đền Củi ở Hà Tĩnh

Đền Củi hay còn gọi là Đền Chợ Củi có tên chữ là Khu Độc Linh Từ. Đền được tạo lập vào cuối đời nhà Lê thuộc xã Xuân Hồng, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Đền Củi gắn với Truyền thuyết Tướng Lê Khôi – Danh tướng nhà Lê. Ông là cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh. Vì vậy ông Hoàng Mười còn được nhân dân tôn vinh là “Đức thánh minh”.

Ông là một vị quan nằm trong hệ thống điện thờ mẫu tứ phủ ở Việt Nam. Nơi nào có điện thờ mẫu là nơi đó có tượng hoặc bàn thờ ông Hoàng Mười. Ông rất linh thiêng và thường hiển thánh cứu giúp muôn dân.

Đền Quan Hoàng Mười tại Hưng Nguyên – Nghệ An

Đền Ông Hoàng Mười có tên chữ là Mỏ Hạc Linh Từ nằm trên địa bản xã Hưng Thịnh, Huyện Hưng Nguyên, Tỉnh Nghệ An.

Đền Quan Hoàng Mười tại Hưng Nguyên, Nghệ An cách đền Củi 2km theo đường chim bay và khoảng 6km theo QL1A.  Hai ngôi đền chỉ cách nhau bởi dòng sông Lam nước xanh như ngọc. Đứng bên đền này có thể nhìn thấp thoáng đền kia qua dòng sông lung linh thơ mộng.

Đền thờ Ông Hoàng Mười

Đền cách trung tâm thành phố Vinh khoảng 2km theo đường chim bay. Đền được xây dựng năm 1634 từ thời hậu Lê trên diện tích hơn 1ha. Nhưng sau này trải qua thời gian và chiến tranh, ngôi đền đã trở thành phế tích và hầu như không còn gì. Mãi đến năm 1995 mới được tôn tạo lại.

Ngày lễ Ông Hoàng Mười

Ngày 10/10 là ngày lễ chính của Ông Hoàng Mười và được tổ chức long trọng tại các đền thờ ông. Lúc này, rất nhiều du khách thập phương tới các địa điểm này để dâng cúng ông những vật lễ trang trọng và thánh kính. Tuy nhiên, nếu bạn đọc có nhu cầu đi lễ ông Mười thì hãy lựa chọn những mẫu đồ lễ mang màu vàng vì màu vàng cũng là màu áo của ông khi ngự về đồng.

Hầu giá Quan Hoàng Mười

Ông Hoàng Mười được coi là một trong hai vị Thập Vị Quan Hoàng hay về ngự đồng nhất, vi ông là người được Vua Mẫu tin tưởng giao đi chấm lính bắt đồng. Những người sát căn ông Mười thì thường có nét hào hoa phong nhã, văn võ song toàn đặc biệt là rất giỏi văn chương.

Khi ngự về đồng, Ông Hoành Mười thường vận áo vàng thêu rồng uốn lượn thành chữ Thọ, đầu đội khăn xếp thắt lét vàng, kim cài lệch màu vàng kim. Ông về ngự tấu hương rồi khai quang, sau đó ông múa cờ chinh chiến, có khi lại ngâm thơ, cũng có khi ông lại lấy dải lụa vàng như đang cùng người dân kéo lưới trên sông Lam, tượng trưng cho việc kéo tài lộc về cho bản đền. Cũng như ông Bảy, ông Hoàng Mười cũng cầm cây hèo cưỡi ngựa đi chấm đồng. Người ta thường lấy đồng tiền 10.000đ giấy có màu đỏ vàng giả làm cờ cài lên trên đầu ông. Người ta dâng đọi chè xanh, miếng trầu, thuốc lá là những đặc sản quê hương Nghệ An để khi ông ngự vui lòng, hò những điệu hò xứ Nghệ mượt mà.

Bản văn chầu Quan Hoàng Mười.

Cành hồng thấp thoáng trăng thanh,

Nghệ An có đức thánh minh ra đời.

Gươm thiêng chống chỉ đất trời

Đánh Đông, dẹp Bắc việc ngoài binh nhung.

Thanh xuân một đấng anh hùng.

Tài danh nổi tiếng khắp vùng Trời Nam.

Hai vai nặng gánh cương thường,

Sông Lam sóng cả, buồm dương một chèo.

Dựng nền đức Thuấn nhân Nghiêu,

Sóng yên bể lặng sớm chiều thảnh thơi.

Khi Bích động lúc Bồng lai,

Non nhân, nước trí mọi nơi ra vào

Cỏ hoa hớn hở đón chào.

Nhớ xưa Lưu Nguyễn lạc vào Thiên thai.

Trời Nam có đức Hoàng Mười,

Phong tư nhất mực tuyệt vời không hai.

Nền chí dũng, bậc thiên tài,

Văn thao – Võ lược tư Trời thông minh.

Tiêu dao di dưỡng tang tình.

Thơ Tiên một túi – Phật Kinh trăm tờ.

Khi Phong nguyệt, lúc bi từ.

Khi xem hoa nở, khi chờ trăng trong.

Khi Thiếu lĩnh, lúc non Bồng,

Cành cây mắc võng, lòng sông ngự thuyền.

Người Thành thị, khách Lâm tuyền,

Nam thanh nữ tú mình quyền bóng sang.

Phong quang đẹp ý Đức Hoàng.

Khác nào Thu cúc – Xuân lan tới tuần.

Xiết bao bể ái, nguồn ân.

Ban Tài, tiếp Lộc, thi nhân, thi từ.

Cát đằng thuận gió xuân đưa

Xui lòng quân tử đề thơ hảo cầu

Năm ba Tiên nữ theo hầu,

Trăm hoa cài tóc, nhiễu Tàu vắt vai.

Phong hoa tuyết Nguyệt đượm mùi,

Dâng câu thiên bảo chúc lời tăng long

Trần duyên chưa trút được lòng,

Đường mây sớm trở xe hồng thượng Thiên.

Nghe thường hội nghị quần Tiên,

Nghe tin người đến thiên duyên chạnh lòng.

Vân tiên mượn cánh chim hồng,

Xin người soi tỏ tấc lòng cho chăng?

Cầu Ô đem bắc sông Ngân,

Ngồi trong cung Quảng đêm Xuân mơ màng

Bóng trăng soi tỏ canh trường.

Đã cam tấc dạ tuyết sương cùng người.

Thủy tiên dìu dặt đón mời,

Bấy lâu khao khát đầy vơi chạnh lòng.

Vượt bể đào tới ngàn xanh.

Đường Tiên cảnh cũ nặng tình nước non.

Trúc xinh cô Quế cũng giòn

Phù dung yểu điệu – Mẫu đơn não nùng.

Ngày ngày lên núi ngóng trông.

Đỏ hai khóe hạnh chờ mong Đức Hoàng.

Nhớ xưa hẹn ngọc, thề vàng.

Mừng nay tỏ mặt Đức Hoàng tới nơi

Lên núi rồi lại xuống đồi,

Dưới trăng luống những đứng ngồi ngẩn ngơ.

Vào rừng hái lá đề thơ,

Cậy đôi cánh Nhạn tin đưa tới người.

Cõi Trần mở tiệc mừng vui.

Đông về nhớ Đức Hoàng Mười giáng sinh.

Rượu đào kính chúc Thánh minh.

Phong hoa, tuyết nguyệt phẩm bình mấy chương.

Ngẫm câu Thế sự vô thường

Tấc son mượn nước cành dương tưới nhuần

Vắng người vắng cả mùa Xuân.

Nhớ người vì Nước, vì Dân, vì Đời.

Thế gian nhớ miệng Hoàng cười

Nhớ khăn Hoàng chít, nhớ lời Hoàng ban.

Khi phố Cát, lúc đồi Ngang,

Nón kinh vó ngựa, dăm ngàn tiêu dao.

Đường đường cung kiếm anh hào,

Túi thơ, bầu rượu sớm chiều sênh sang.

Hèo hoa chảy hội Tiên hương

Chấm đồng nhận lính khắp miền Đông Tây.

Khi nương gió, lúc cưỡi mây.

Khi rung khánh ngọc khi lay chuông vàng.

Hoàng về gối xếp ai mang,

Hèo hoa ai vác ngựa vàng ai trông.

Lệnh truyền cô Quế, cô Hồng,

Hèo hoa, gối xếp, đèn lồng tay mang.

Cô Lan, cô Huệ xếp hàng,

Gióng yên, dắt ngựa lên đàng vân du.

Thuyền Rồng thấp thoáng chèo đưa,

Tinh kỳ nhã nhạc Hoàng về Nghệ An

Phú chuốc rượu

Bồ đào tửu Linh Sơn tiên nữ cất

Đợi xuân về hội nghị quần tiên

Rượu nồng tiên nữ dâng lên

Tuần sơ dâng tiến án tiền mời Hoàng xơi

Hoàng cúc bôi trung đường tiên tửu

Hằng Nga thiên thượng tuyết thu ba

Tay tiên chuốc chén hoàng hoa

Nhị tuần dâng tiến mới đà thiết thi

Sao thế nhỉ trăng khi mờ khi tỏ

Gớm ghê thay nàng Ngọc Thỏ đa tình

Tay tiên chuốc chén rượu quỳnh

Tam tuần hiến, hỏi ba vạn sáu ngàn ngày là mấy.

Các đoạn thơ phú

Phú

Bởi tiền thế tu nhân tích đức

Khiến xui lên gặp bạn tiên cung

Nợ trần hoàn vương vấn chưa xong

Giục lòng khách mơ mòng tưởng nhớ

Nay đến lúc Hoàng về người ở

Thôi thôi đành vĩnh cách trường ly

Nghĩa trăm năm còn bức ca thi

Dâng hoàng tử làm khi tiễn biệt

Một lối lên tiên nhẹ gót trần

Mây trời cỏ đất hội long vân

Ba sinh gặp gỡ say vì cảnh

Một phút mơ màng vạn cảnh xuân

Văng vẳng bên tai cung đàn nguyệt

Vang vang trong động thú chào xuân

Chẳng hay cảnh ấy về đâu tá

Mong tới nguyên đào vẫn chủ nhân

Hoa đào rơi rắc lối thiên thai

Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi

Nửa năm tiên cảnh bước trần ai

Ước cũ duyên xưa có thế thôi

Đá mòn rêu nhạt nước chảy hoa trôi

Cánh hạc bay cao vút tận trời

Ngõ hạnh vườn đào xa cách mãi

Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng soi

Yên hà lối trước lại lần sau

Nước biếc non xanh thắm một màu

Đàn hát hôm nay êm dìu dịu

Hạt mây này nọ sạch lầu lầu

Cây xưa lối cũ say vì cảnh

Gió mới xuân về chẳng khác xưa

Nhìn tiên cảnh năm xưa còn đứng đó

Hỏi người năm cũ bây giờ đâu.

Hò Nghệ An

Đất lề quê thói Nghệ An

Miếng trầu cau đậu dâng quan Hoàng Mười

Trông hoa lại nhớ đến Người

Đông về lại nhớ Hoàng Mười Nghệ An

Đất Nghệ An có anh hùng hào kiệt

Tiếng Ông Mười lẫm liệt ngàn xưa

Vung gươm lên ngựa đề cờ

Ra tay gìn giữ cõi bờ Việt Nam

Chí anh hùng ra tay giữ nước

Đi tới đâu giặc phải tan ngay

Việt Nam ghi nhớ sử này

Cung cao điện ngọc đêm ngày khói nhang

Khi hội nghị luận bàn việc nước

Hoàng mang tài thao lược hiến dâng

Lĩnh sắc rồng khiển tướng điều quân

Gươm thiêng ba thước,ngựa hồng xông pha

Đò từ Đông Ba đò qua Vĩ Dạ,

Đò từ Đầm Đá tới Phú Vân Lâu

Non xanh nước biếc một màu

Một con đò nhỏ đưa ghế ông về thăm cảnh Nghệ An

Cũng có phen lên ngàn xuống bể

Trở ra về phủ tía lầu son

Cũng có phen ngắm ánh trăng tròn

Khi xem huê nở khi chờ trăng lên

Đường về xứ Nghệ nghĩa tình,

Sông Lam núi Quyết địa linh bao đời,

Tam Kỳ Mỏ Hạc là nơi,

Đền thờ lăng mộ đời đời khói nhang

Nước sông Lam răng trong răng đục

Gạo chợ Chùa vừa trắng vừa trong

Ghế ông tình mặn nghĩa nồng

Điều lành điều dữ sá cùng trần gian

Muối ba năm muối kia còn mặn

Gừng chin tháng gừng hãy còn cay

Ghế ông đây tình nặng nghĩa dày

Xa xôi chăng mấy cũng về đây ngự đồng

Thuyền rồng còn đợi bến sông

Chở các thanh đồng đi hội trong Nghệ An

Cho dù cách trở sông Lam

Có cầu Bến Thuỷ bắc ngang đôi bờ

Dòng sông Lam bên lở bên bồi

Dấu thiêng Hoàng để muôn đời khói nhang

Đất Thiên Bản còn nhớ người trấn thủ

Đền Mẫu Phủ Giày còn lồng lộng chữ công danh

Ông Mười trấn thủ trong thành

Mười ba năm lẻ còn nức danh tướng tài

Thành Huế ơi sông Hương răng núi Ngự

Cầu Tràng Tiền ,Bến Thuỷ đẹp long lanh

Năm cửa ô về tới đô thành

Nam Đàn xứ Nghệ nức danh Hoàng Mười

Đường vô xứ Nghệ loanh quanh

Nơi Ông Mười ngự như tranh hoạ đồ

Ai vô xứ Nghệ thời vô

Qua cầu Bến Thuỷ tới kinh đô Hoàng Mười

Ngắm xem phong cảnh đất trời

Nghệ An mến khách mến người trọng ân

Cỏ cây chưa trút bụi trần

Đường về chẳng biết rằng gần hay xa

Xinh thay hỡi thú yên hà

Đào nguyên ướm hỏi ai là chủ nhân

Đường xa muôn dặm cũng gần

Giáng lâm giá vũ đằng vân ngự đồng

Chim khôn đã phải cẩm lồng

Cau non, thuốc lá chiều lòng (Hoàng) ăn chơi

Vân du góc bể chân trời

Không đâu lịch sự bằng nơi đền này

Bao giờ Hồng Lĩnh hết cây

Sông Lam hết nước ghế ông đây chưa hết lộc tài

Độ cho đắc lộc tài sai

Thọ khang phú quý trong ngoài hanh thông

Bốn mùa xuân hạ thu đông

Thu Đông tiếp lộc,hạ xuân tiếp tài

Ai mà ăn nói đơn sai

Dù cho của cải cũng để ngoài bể đông

Thương ai chấp lính nhận đồng

Tu nhân tích đức lên công vẹn thành

Ai ơi nên ở cho lành

Kiếp này chưa trọn Hoàng để dành kiếp sau

Nào trời có phụ ai đâu

Sở nguyện như ý sở cầu tòng tâm

Ai mà tích đức tu nhân

Đắp bồi cội phúc thêm phần đề đa

Trăng bao nhiêu tuổi trăng già

Ghế Hoàng bao nhiêu tuổi mà vẫn hào hoa như thuở nào

Trên trời vằng vặc ngôi sao

Trời nam chói lọi anh hào cổ xưa

Thương người dầu dãi nắng mưa

Thương người đi sớm về trưa nặng lòng

Chứng tâm chứng lộc cho đồng

Cho cầu nên ước được gia trung thuận hoà

Các cô quạt nước pha trà

Quần tiên múa hát xướng ca hoạ vần

Cô dâng lên chiếc quạt trầm

Nghiên vàng bút ngọc ân cần khoan thai

Đầu lược giắt, chân giậm văn hài

Cô cả dâng điếu ngự, cô nàng hai theo hầu

Cô ba gối xếp theo sau

Đất lề quê thói cô tư têm trầu Hoàng xơi

Cô năm dâng giá gương soi

Còn cô nàng sáu rượu mời dâng ông

Cô bảy dâng đoá huê hồng

Còn cô nàng tám kiệu rồng rước (ông Mười) lên

Cô Chín múa lượn xênh tiền

Thướt tha yểu điệu khách tiên mơ màng

Cô Mười thỏ thẻ oanh vàng

Tiếng tiêu cô thổi khiến lòng Hoàng nâng nâng

Cô mười một thơ hoạ đôi vần

Dâng ông quý vật kì tân đủ mùi

Cô mười hai sắc nước hương trời

Mười hai cô tiên nữ phò giá Ông Mười lai kinh

Lý nghệ an:

thuyền ai thả lưới buông câu

khoan hỡi dô khoan thuyền quan hoàng thập

dập dìu trên sông sóng nước mênh mông

hương ngát bay trong đền lòng hoàng thấy nâng nâng

uy danh sáng soi muôn đời một lòng giữ yên trời nam

muôn dân bắc nam phụng thờ hoàng độ cho nước non bình an

lòng hoàng thương đồng còn nhiều gian nan

nắng mưa không quản xin hoàng chứng cho lòng con

tâm tư theo cánh nhạn hồng gửi về xứ thiên trời nam

độ cho phúc lâu giàu bền lộc vô nhà như nước dòng sông lam

bên dòng sông lam có đền đức quan hoàng mười

địa linh nhân kiệt vang danh lưu dấu muôn đời

ngự đồng chơi hào hoa phong nhã

bao người ngóng trông hộ quốc dân an cho mai sau đời đời ấm no

phúc lai cho thanh đồng ghế ông hằng ghi nhớ mãi

con cúi xin ông mười ông về tiếp lộc để lần sau.