Chầu bé Bắc Lệ là ai? Thánh tích, đền thờ và bản văn khấn

Nội dung chính [Hiện]

Đạo Mẫu là một trong những tín ngưỡng dân gian phổ biến ở Việt Nam, trong đó Tứ phủ Chầu Bà được coi là một trong những phần quan trọng. Trong Tứ phủ Chầu Bà, Chầu Bé Bắc Lệ được xem là vị Chầu Bà thứ 11 trong Thập Nhị Vị Chầu Bà. Vào ngày 12/9 âm lịch (tức ngày 19/9 âm lịch tại một số địa phương), du khách từ khắp nơi lại cùng nhau đổ về miền xứ Lạng để chầu bà và sắm sửa đồ lễ hành hương. Để hiểu rõ hơn về Đạo Mẫu cũng như Tứ phủ Chầu Bà, chúng ta cùng tìm hiểu thêm về Chầu Bé.

Chầu Bé Bắc Lệ là ai?

Chầu bé Bắc Lệ công chúa là con gái người Nùng ở Hữu Lũng Lạng Sơn, bị giặc cưỡng bức đã hòa mình xuống sông Bắc Lệ. Chầu anh linh giúp dân giúp nước độ người viễn sứ tha hương, lúc lại hiện hóa ra người bán hàng, chữa bệnh. Ngài là hiện thân của Mẫu đệ nhị thượng ngàn.

Chầu Bé Bắc Lệ là ai và thánh tích, đền thờ

Chầu Bé Bắc Lệ là một trong những vị Chầu Bà trong Đạo Mẫu, thuộc Tứ phủ Chầu Bà và đứng thứ 11 trong Thập Nhị Vị Chầu Bà. Chầu Bé được coi là vị thần linh bảo trợ cho sức khỏe, tài lộc và may mắn của con người. Theo truyền thống, ngày lễ Chầu Bé thường diễn ra vào ngày 12/9 âm lịch (hay còn gọi là ngày 19/9 âm lịch tại một số địa phương). Người ta thường đến đền Chầu Bé để cầu may mắn, tài lộc, sức khỏe cho bản thân và gia đình.

Quyền phép của Chầu Bé Bắc Lệ?

Tương truyền, Chầu Bé có phép thần thông do Đức Thái Tổ ban quyền có thể lay núi chuyển ngàn, đôi lúc rong chơi chầu lấy tàu lá giả làm hàng bán để trêu đùa người trần gian. Tuy đành hanh sắc sảo nhưng chầu cũng hết sức nhân hậu, có việc dữ lành chầu đều mách bảo cho người trần.

Theo tín ngưỡng Đạo Mẫu, Chầu Bé Bắc Lệ được xem là vị thần linh bảo trợ cho sức khỏe, tài lộc và may mắn của con người. Vì vậy, khi đến đền Chầu Bé, người ta thường cầu xin những điều tốt đẹp cho bản thân và gia đình.

Ngoài ra, Chầu Bé còn được xem là vị thần linh có quyền phép giải quyết những tranh chấp trong cộng đồng. Khi xảy ra mâu thuẫn hay bất đồng quan điểm, người ta có thể đến Chầu Bé để làm lễ và xin giải quyết.

Tuổi chầu Bé đương tuần trăng độ
Phép sơn trang đức tổ danh truyền
Phép tiên lay núi chuyển ngàn i i i
Bẻ ba tàu cỏ giả hàng bán chơi
Bạn Thổ, Mán nơi nơi tìm đến
Đàn ngũ âm múa lượn hát ca
Chiều chiều thơ thần bên đồi i i i

Thánh tích về Chầu Bé Bắc Lệ

Chầu Bé là một vị chầu bà người Nùng trên Lạng Sơn, có nguồn gốc từ dân tộc Nùng. Trong thời Lê Thái Tổ, Chầu Bé đã giúp đỡ dân giúp nước và có công trong cuộc kháng chiến chống quân Minh kéo dài 10 năm. Có tài liệu cho rằng Chầu Bé không chỉ đơn thuần là một vị chầu bà mà còn là Mẫu Thượng Ngàn hóa thân. Sau khi giúp vua Lê Thái Tổ chiến thắng quân Minh, Chầu Bé được vua phong là Lê Mại Đại Vương.

Chầu Bé được coi là một vị thần linh của dân tộc Nùng, và đôi khi còn được đồng nhất với Bà Chúa Sơn Trang. Chầu Bé thường đi khắp nơi thưởng thức các thắng cảnh đẹp và dạy dân trồng trọt, chăn nuôi, lên rừng làm ruộng bậc thang, và xuống sông suối đánh bắt cá tôm.

Theo truyền thống, Chầu Bé có khả năng thần thông, có thể di chuyển núi non và rong chơi chầu bằng tàu lá giả để trêu đùa người trần. Mặc dù đôi khi Chầu Bé có hành động khá tinh nghịch, nhưng Chầu Bé vẫn rất nhân hậu và luôn sẵn sàng giúp đỡ những người xung quanh.

Chầu Bé là một trong ba vị Chầu Bà trên Thượng Ngàn, cùng với Chầu Đệ Nhị và Chầu Lục. Mặc dù vị trí của Chầu Bé trong hàng Tứ Phủ Chầu Bà thường xếp cuối cùng, nhưng chầu vẫn được tôn trọng và được ngự đồng như các vị chầu khác. Khi ngự đồng, Chầu Bé thường mặc áo đen hoặc xanh chàm, chân đi xà cạp, trên vai đeo gùi hoa, và thường khai quang trước khi múa mồi.

Đôi khi, Chầu Bé cũng có thể tham gia vào các hoạt động cùng với Chầu Đệ Nhị và Chầu Lục, như chứng tòa Sơn Trang trong đàn mở phủ, hoặc sang khăn cho tân đồng hoặc chứng mâm giầu trình.

Ba vị Chầu Bà này được coi là những vị thần linh quan trọng của dân tộc Nùng, và được tôn vinh trong các lễ hội truyền thống. Chầu Bé, Chầu Đệ Nhị và Chầu Lục đều có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ, giúp đỡ và cầu nguyện cho các vùng đất và con người trên Thượng Ngàn.

Đôi khi, Chầu Bé cũng được coi là đồng nhất với Bà Chúa Sơn Trang. Chầu Bé Bắc Lệ là vị Chầu Bà hay được người trần thỉnh nhất. Những vị Chầu Bé còn lại là người coi giữ ở đền đó và chỉ khi về chính đền, các vị đó mới ngự. Có thể kể tên đó là:

  • Chầu Bé Đông Cuông (ở Đền Đông Cuông, Yên Bái)
  • Chầu Bé Đồng Đăng (ở Đền Đồng Đăng, Lạng Sơn)
  • Chầu Bé Tam Cờ (ở Đền Tam Cờ, Tuyên Quang)
  • Chầu Bé Đền Ghềnh (ở Đền Ghềnh, Hà Nội)

Tuy có sự xuất hiện của các vị Chầu Bé tại các đền khác nhau, song người ta coi đó là Chầu Bé Bắc Lệ đang giáng hiện muôn nơi. Và đền thờ Chầu Bé Bắc Lệ cũng là một địa điểm tâm linh và linh thiêng và được . 

Đền thờ Chầu Bé Bắc Lệ ở đâu?

Đền thờ Chầu Bé nằm trên đồi cao ở phía mặt tiền của đền Bắc Lệ, thuộc xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Đây là một ngôi đền nhỏ thờ Bà Chúa Thượng Ngàn và Chầu Bé, là một trong những vị thánh Chầu Bà được suy tôn trong hệ thống thờ Mẫu của người Việt. Đền Bắc Lệ là nơi linh thiêng, nơi người ta thường khấn tấu Chầu Bé trước khi khấn Mẫu. Trong các ngày lễ, du khách và người dân địa phương thường đến đây để thực hiện nghi thức lau tượng với nước suối đền, được coi là một nghi thức thiêng liêng trong lễ tắm ngai.

Mặc dù đã trải qua nhiều lần tôn tạo, đền Bắc Lệ vẫn giữ được kiến trúc tâm linh lịch sử và là điểm đến hành hương của nhiều du khách tới vãn cảnh và cầu an. Trong các dịp lễ tết, du khách và người dân địa phương thường chuẩn bị đầy đủ những mâm đồ lễ đẹp để dâng lễ và cầu nguyện.

Văn Chầu Bé Bắc Lệ

Ngọc diệp dành dành kim chi ngọc diêp dành dành

Chầu Bé Bắc Lệ hách danh phàm trần

Núi chất núi trùng trùng cao thấp

Cây chen cây tràn ngập màu lam

Ngôi đền thờ chầu bé trên ngàn

Đền thờ chầu bé trên ngàn

Có con suối nhỏ vắt ngang sườn đồi

Đàn cá lội đua bơi rẽ sóng

Nước lung linh in bóng trăng thu

Ngàn thông cất tiếng hát ru

Ngàn thông cất tiếng hát ru

Hoa thơm trái ngọt bốn mùa ngát hương

Chầu bé thượng thổ mường là gốc

Áo tứ thân khăn thắm đội đầu

Đai xanh kiềng bạc túi chầu

Một bên dao quắm vai vác bầu nước khe

Giận hải sảo đầu cài trâm nhím

Vòng kim cương tam khới lồng tay

Hây hây mặt nước vơi đầy

Hây hây mặt nước vơi đầy

Chầu bé xinh đẹp như hoa mới nở trước ngày đầu xuân

Tuổi chầu bé đương tuần trăng độ

Phép sơn trang đức tổ ban quyền

Có phép thiêng biến lá thành thuyền.

Nàng ân nàng ái vốn dòng sơn trang

Tính chầu hay măng trúc măng giang

Măng mai măng nứa cơm lam trà vàng

Tính có khi sung ngái đi tìm

Cất tay tiên, múa song đăng

Song đăng chầu múa dịu dàng khoan thai

Thắt thắt lưng đai giọt ngắn giọt dài

Thắt lưng đai giọt ngắn giọt dài

Tay cầm đôi đuốc chân đi hài sảo hoa

Chơi chảnh lòng bát đá người ta

Càng nhìn càng thắm càng dòn

Cổ kiêu ba ngấn mặt tròn khuôn trăng

Tay tháp bút hàm răng ngọc thạch

Tai ngoãn vàng hổ phách kim cương

Quần chân áo chít khác thường

Chân đi hải sảo thượng nhường khai hoa

Đầu nón chiêng lẵng hoa chầu quẩy

Lưng đai xanh bồ đậy dao quai

Trên đầu lược dắt trâm cài

Đền thờ chầu ngự trên ngàn

Cây xanh mắc võng thú vui ra vào

Nước chảy ra minh đường tụ thủy

Ngôi đền thờ tú khí trung linh

Thấp cao vạn tượng thiên hình

Thượng cầm hạ thú sơn tinh mọi loài

Bầy điểu thú hươu nai hổ báo

Đủ muôn loài xà giảo sài lang

Chim kêu vượn hót trên ngàn

Suối reo nước bạc cá vàng chầu lên

Đứng đôi bên lân dờn phượng múa

Sắp hai hàng chầu chúa sơn tinh

Khi chơi cung cấm quảng hàn

Hà giang bắc mục tòa vàng thảnh thơi

Có phen chơi thanh sơn bích động

Lệnh truyền đòi các chúng sơn tinh

Ngắm trăng sơn thủy hữu tình

Khen ai khéo đúc họa hình thiên nhiên

Tiên chúa bé anh linh hiển hiện

Bắc lệ từ cung điện nguy nga.

Xe loan thánh giá hồi cung.