Ngũ Vị Tôn Quan (Ngũ Vị Tôn Ông) gồm những ai, thờ ở đâu?

Nội dung chính [Hiện]

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ Phủ, sẽ rất dễ dàng thấy ban thờ Ngũ Vị Tôn Quan trong hầu khắp các bản đền điện thờ Mẫu. Vậy Ngũ Vị Tôn Quan là ai ?  quyền phép, thần tích và văn khấn Ngũ Vị Tôn Quan như thế nào ? Ngũ Vị Tôn Quan hiện được thờ ở những đâu ? hy vọng trong bài viết bên dưới ban biên tập sẽ giúp quý độc giả giải đáp các câu hỏi trên.

Ngũ Vị Tôn Quan là ai ?

Ngũ Vị Tôn Quan còn được gọi là Ngũ Vị Tôn Ông hay Ngũ Vị Quan Lớn, là 5 vị đại quan có vai trò rất quan trọng trong hệ thống Tứ Phủ Công Đồng bao gồm:

  • Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên
  • Quan Lớn Đệ Nhị Thượng Ngàn (hoặc Quan Lớn Đệ Nhị Giám Sát)
  • Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ
  • Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai
  • Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh

Ngũ Vị Tôn Quan

Ngũ Vị Tôn Quan đứng hàng thứ 2 chỉ sau Tam Tòa Thánh Mẫu. Là những vị quan được cho là con vua cha Bát Hải Động Đình, gắn liền với các chiến công chống ngoại xâm, khi hóa đi lại hộ quốc an dân. Được khắp nơi nhân dân hương khói phụng thờ chính điện (ban Công đồng) trong các bản đền bản điện có thờ Mẫu.

1. Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên

Quan Đệ Nhất Thượng Thiên là vị quan đứng đầu trong Ngũ Vị Tôn Quan, được coi là Ông Lớn cai quản Thượng Thiên và là con trai cả của Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình. Theo truyền thuyết, ông là Tôn Quan Đại Thần trên Đế Đình Thiên Cung, được sắc phong ngôi Thượng Thiên Nhất Phẩm Công Hầu, chịu trách nhiệm quản cai tam giới đình thần văn võ. Tuy nhiên, Quan Đệ Nhất không giáng trần và chỉ xuất hiện trong những dịp đặc biệt như mở phủ, tạ phủ, hầu xông đền xông điện.

Khi ngự đồng, ông mặc áo đỏ thêu rồng, hổ phù và thực hiện các nghi lễ như tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp trạng mã. Thông thường khi khai đàn mở phủ, người ta cần thỉnh Quan Đệ Nhất về chứng đàn Thiên Phủ, một loại đàn đặc biệt gồm có long chu phượng mã (ngựa và thuyền rồng)…, tất cả đều màu đỏ.

Mặc dù không giáng trần nên Quan Đệ Nhất không có đền và ngày tiệc chính, nhưng Quan Đệ Nhất vẫn được tôn vinh và có tượng thần riêng trong các đền thờ. Tượng ông thường ngồi giữa Năm Tòa Ông Lớn, mặc áo bào đỏ và đội mũ cánh chuồn.

Khi ông ngự đồng văn thường hát:

“Hương một chiện chín lần soi thấu
Dãi lòng trần khải tấu linh thông
Thỉnh mời Đệ Nhất Tôn Ông
Lai lâm trắc giáng điện trung oai hùng”

Hay cũng có hát rằng:

“Anh linh lục trí thần thông
Quyền cai tam giới uy phong phép màu
Thượng Thiên xa giá lên chầu
Khâm ban sắc chỉ Công Hầu ra uy”

Hiện nay, Trong quần thể di tích đền Đức Vua Cha Bát Hải Đồng Bằng, cách đền Đồng Bằng khoảng 500m, thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình có thờ Quan Lớn Đệ Nhất 

2. Quan Lớn Đệ Nhị Thượng Ngàn

Quan Lớn Đệ Nhị Thượng Ngàn là vị quan thứ hai trong Ngũ Vị Tôn Quan, còn được gọi là Quan Đệ Nhị Giám Sát hoặc Quan Thanh Tra Giám Sát. Ông là con trai thứ hai của Vua Cha Bát Hải Động Đình và được hạ phàm vào Hoàng Cung theo lệnh của Vua Cha vào ngày mồng mười tháng mười một năm Bính Dần.Xong cũng có sách nói rằng ông hạ phàm ngày mồng ba tháng mười một năm Ất Dậu trong một gia đình quý tộc.

Tôn Ông Đệ Nhị được mô tả là người văn võ toàn tài, thông minh chính trực, được ngưỡng mộ và học theo bởi nhiều vương tôn công tử.Sau khi về Chầu Thiên Đình, Ông được giao quyền giám sát quản cai Sơn Lâm, Thượng Ngàn và thường ban phúc cho dân chúng, giúp họ vượt qua khó khăn như hạn hán bằng cách mang lại mưa thuận gió hòa khi giáng thế.

Quan Đệ Nhị là một trong ba vị quan lớn thường ngự về đồng, kể cả trong những ngày tiệc vui. Khi ngự đồng, ông mặc áo xanh la hoặc xanh lá cây thêu rồng, hổ phù và thực hiện các nghi lễ như tấu hương, khai quang, chứng sớ và múa kiếm. Trong các dịp đại lễ thì trước ngày làm lễ người ta thường thỉnh Quan Đệ Nhị về thanh tra giám sát đàn mã đền phủ và khi khai đàn mở phủ, người ta thỉnh Quan Đệ Nhị về chứng đàn Nhạc Phủ, với đàn mã đều màu xanh.

Trong khi quan ngự văn có hát rằng:

“Nhác trông lên tòa vàng san sát
Không đâu bằng Phố Cát, Đồi Ngang”

Hay để ca ngợi tài trí của Quan Giám Sát, văn hát rằng:

“Phép quan giá vũ đằng vân
Khắp muôn công tử xa gần làm tôi
Trời làm đại hạn nắng nôi
Kiều quan đảo vũ một thôi giờ Dần
Lệnh sai Hà Bá, Thủy Thần
Tự nhiên dâng nước xoay vần mưa sa”

Hay khi nói về điển tích của ông cũng có văn rằng:

“Năm Bính Dần mồng mười tháng một
Thái Hậu bà sinh giáng tôn quan”

Quan Giám Sát được thờ tại hai nơi chính là Đền Quan Giám ở huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, nơi quan trấn giữ miền Sơn Lâm; và Đền Quan ở Phố Cát, Thanh Hóa, nơi quan giáng hạ dạo chơi. Ngày tiệc chính của ông là ngày 10 tháng 11 âm lịch, đây cũng là ngày hạ phàm của quan.

3. Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

Tôn Ông Đệ Tam, hay còn được biết đến với tên gọi khác là Tam Phủ Vương Quan, là vị quan thứ ba trong Ngũ Vị Tôn Quan. Ông là con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình và được vua cha giao phó nhiều trách nhiệm quan trọng.

Dưới thời Hùng Vương, theo sự chỉ đạo của vua cha, ông cùng hai người em (có sách nói là hai người thân cận) tham gia chỉ huy quân đội. Ba anh em này được tôn vinh là "Tam Vị Đại Vương" bởi sự dũng mãnh và khả năng lãnh đạo của họ. Trong số ba anh em, Quan Đệ Tam là người được biết đến nhất và được kính trọng nhất trong nhân dân.

Có một điển tích kể lại rằng, trong một trận chiến quyết liệt, Quan Tam Phủ là người duy nhất giáng trần vào nhà quý tộc dưới thời Hùng Vương và trở thành vị tướng quân thống lĩnh ba quân thuỷ lục. Tuy nhiên, ông đã tử trận trong trận chiến đó, với phần thượng thân (đầu) và hạ thân (mình) trôi về hai bên bờ con sông Lục Đầu.

Sau khi mất, ông được tôn vinh và hoá về chầu Long Cung, nắm giữ quyền lực trong Tam Giới và giám sát các thanh đồng đạo quan. Vì vậy, ông còn được biết đến với biệt danh "Ông Cai Đầu Đồng". Những lúc thanh nhàn, ông đã truyền bá lệnh cho ba quân tập hợp thuyền bè, dạo chơi khắp miền, trên sông dưới suối, để phù hộ cho ngư dân và bảo vệ hòa bình cho nhân dân.

Quan Lớn Đệ Tam, với tài danh bậc nhất trong số các Quan Lớn, được tôn vinh và thờ phụng ở nhiều nơi khác nhau. Trong các buổi lễ quan trọng, như đại tiệc khai đàn mở phủ, người ta thường thỉnh quan về chứng đàn Thoải Phủ. Lễ khai đàn mở phủ thình Quan Lớn Đệ Tam gồm có long chu phượng mã, lốt tam đầu cửu vĩ…: tất cả đều màu trắng. Khi ngự đồng, ông mặc áo trắng thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp và ông múa đôi song kiếm.

Có một số đền thờ được xây dựng để thờ phụng Quan Lớn Đệ Tam. Trong số đó, Đền Lảnh Giang ở Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam được tưởng nhớ là nơi hạ thân của ông trôi về sau khi tử trận trong trận chiến. Đền Xích Đằng, cũng thuộc Hà Nam, là nơi thờ thượng thân của Quan Lớn Đệ Tam.

Ngoài ra, có các đền thờ khác như Đền Cửa Đông tại thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn (gần Đền Mẫu Thoải), Đền Lâm Du thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, và Đền Tam Kì thuộc thành phố Hải Phòng (gần bến xe Tam Bạc).

Ngày tiệc chính của Quan Lớn Đệ Tam là ngày 24 tháng 6 âm lịch, được coi là ngày đản nhật giáng sinh của ông, là dịp quan trọng để tôn vinh và kỷ niệm về cuộc đời và công đức của ông.

Vậy nên trong văn hát câu rằng:

“ Đản hai tư tháng sáu xưng thần
Khắp Trung, Nam, Bắc muôn dân đảo cầu”

Khi ông về ngự đồng, khai quang chứng đàn mã sớ điệp, văn thường hát đoạn:

“Lòng thành thắp một chiện nhang
Tấu về Thoải Phủ các ban các toà
Thiên Đình, Thoải Phủ, Diêm La
Tấu về Thoải Phủ Vua Cha Động Đình
Vốn xưa là chúa Thủy Tinh…”

Ngoài ra để ca ngợi tài đức, công lao của ông, văn cũng hát:

“Giáp bạc bao phen rực lửa hồng
Xông pha trăm trận cũng như không
Ra tay cứu nước trừ nguy biến
Tiếng để ngàn thu với non sông
…Gươm thần ba thước tay ngang dọc
Tài dậy trời Tây, chí lấp bể Đông”

Hay khi nói về những cuộc dạo chơi khắp sơn thoải đại giang của ông, văn thường hát theo điệu dọc:

Chiếc thuyền nan nổi dòng Xích Bích
Đua mái chèo du lịch bốn phương
Có phen tuần thú sông Thương
Trở ra tỉnh Bắc qua giang Lục Đầu
… Có phen chơi ngã ba Bạch Hạc
Bạn loan ngồi đàn hát vui chơi
Dạo xem phong cảnh mọi nơi
Qua hang Anh Vũ sang chơi nước người”

Và còn có một đoạn rất hay nói về tài phép của quan:

“Hoá tức thì lâu đài điện các
Dâng nước về Thuỷ Quốc một khi
Có phen lấy ngọc lưu ly
Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang”

4. Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai

Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai, vị quan thứ tư trong Ngũ Vị Tôn Quan, được biết đến với vai trò trấn giữ đồng bằng địa linh và khâm sai tứ phủ. Ông không giáng trần và thường ngự trên Thiên Đình, chăm sóc công việc biên chép sổ sách sinh tử và chầu chực bên bệ ngọc bàn loan.

Trong các buổi lễ quan trọng, Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai ít khi xuống giáng đồng, chỉ khi có đại lễ mới thỉnh ông về. Khi ngự đồng, ông mặc áo vàng thêu rồng, hổ phù; thực hiện các nghi thức lễ tấu hương, khai quang và chứng sớ điệp. Thông thường, khi mở phủ khai đàn, người ta mới thỉnh Quan Đệ Tứ về để chứng đàn Địa Phủ, với các hình tượng như long chu, phượng mã, tượng phục, và nghê quỳ, tất cả đều được trang trí màu vàng linh thiêng.

Vì không giáng trần, Quan Đệ Tứ không có đền thờ riêng, nhưng được thờ trong Năm Toà Ông Lớn tại các phủ đền, thường ngồi bên trái Quan Giám Sát hoặc bên phải Quan Tam Phủ.

Ngày tiệc chính của Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai được ghi nhận là ngày 24 tháng 4 âm lịch, tuy nhiên, thông tin này cần được xác thực từ các nguồn tài liệu khác nhau để đảm bảo tính chính xác.

Khi thỉnh Quan Đệ Tứ văn hay hát là:

“Tiệc bàn loan thỉnh Quan Đệ Tứ
Vốn con trời Thái Tử Thiên Cung
Sắc rồng choi chói vua phong
Quyền Quan Đệ Tứ uy hùng dậy vang”

Đền thờ Quan Đệ Tứ Khâm Sai ở đền Mẫu Sinh và đền Thánh Hóa. Đền thờ Ngài còn ở sau đền Đồng Bằng phía đường 10 đi Hải Phòng.

5. Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh

Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh, hay còn gọi là Quan Lớn Tuần Tranh, là vị quan thứ năm trong Ngũ Vị Tôn Quan. Ông là con trai thứ năm của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Dưới thời Hùng Định Vương (Hùng Triều Thập Bát), ông được giao trách nhiệm trấn giữ miền duyên hải sông Tranh và là một tướng quân tài ba lĩnh vực thuỷ bộ.

Tại quê nhà, Quan Lớn Tuần Tranh có tình cảm với một người thiếu nữ xinh đẹp, người đã kết hôn với một viên quan huyện khác. Mặc dù người phụ nữ này không hạnh phúc với cuộc sống "chồng chung", nhưng không nói cho Quan Lớn Tuần Tranh biết về tình trạng của mình. Ông vẫn tin rằng tình cảm giữa họ là đẹp đẽ và hẹn hò ngày đưa nàng về làm vợ. Tuy nhiên, khi viên quan huyện phát hiện ra sự việc, ông bị vu oan là đã quyến rũ vợ của viên quan đó.

Quan Tuần Tranh bị giam giữ và đày lên chốn Kì Cùng ở Lạng Sơn. Tại đây, ông tự sát để rửa oan và chứng minh sự vô tội của mình bằng cách hoá thành dòng sông Kì Cùng. Điều này được xem là một hành động cao cả và bi thương của Quan Lớn Tuần Tranh trong việc bảo vệ danh dự và tình cảm của mình.

Sau khi tự sát và hoá thành đôi bạch xà, Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh trở về nơi quê nhà và thử lòng ông bà nông lão. Ông bà nông dân nuôi nấng đôi bạch xà như con mình. Tuy nhiên, khi quan phủ biết được sự việc, họ bắt ông bà nông lão phải lên cửa công chịu tội và giết chết đôi bạch xà. Hai ông bà thương xót, xin được thả đôi bạch xà xuống dòng sông Tranh, nhưng khi vừa thả xuống, chỗ đó tạo thành một dòng xoáy dữ dội.

Đến thời Thục Phán An Dương Vương, khi vua tập hợp thuyền bè để chống lại giặc Triệu Đà ngay bên bến sông Tranh, thì tại chỗ dòng xoáy kia, thuyền bè không thể qua được và một cơn giông tố nổi lên giữa dòng. Vua An Dương Vương mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì sóng yên bể lặng, và quân sĩ ra trận cũng đạt được chiến thắng.

Để ghi nhận công đức và lòng trung thành của Quan Lớn Tuần Tranh, vua An Dương Vương đã giải oan cho ông và phong ông là Giảo Long Hầu. Sau này, ông còn được coi là một vị hiền thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, và giúp dân sát quỷ trừ tà, dẹp hết những kẻ gian ác hại nước hại dân.

Trong hàng Ngũ Vị Tôn Ông, Quan Lớn Đệ Ngũ, hay còn được biết đến là Quan Lớn Tuần Tranh, là một vị quan lớn vô cùng lẫy lừng và được tôn kính phụng thờ bởi nhân dân xa gần. Mặc dù ông thường được thỉnh cuối cùng trong hàng Năm Toà Ông Lớn, nhưng ông thường ngự về đồng nhất và luôn được kính trọng trong mọi dịp, từ tiệc tựu, đến đàn lễ.

Khi ngự đồng, Quan Lớn Tuần Tranh mặc áo lam thêu rồng, hổ phù; thực hiện lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ tán đàn, và múa thanh long đao. Trong các đại tiệc mở phủ hoặc các lễ tiệc khác, sau khi thỉnh các quan lớn khác về, việc chứng đàn của họ phải chờ đến khi Quan Lớn Đệ Ngũ về để hoàn tất.

Quan Lớn Tuần Tranh được thờ ở nhiều nơi, nhưng hai địa điểm nổi tiếng nhất là Đền Ninh Giang, còn được gọi là Đền Quan Lớn Tuần Tranh, nằm bên bến sông Tranh ở Ninh Giang, Hải Dương, và Đền Kì Cùng, lập bên bến sông Kì Cùng, qua cầu Kì Lừa, nơi ông bị lưu đày.

Ngày tiệc chính của Quan Lớn Tuần Tranh là ngày 25 tháng 5 âm lịch, được coi là ngày ông bị lưu đày và ngày mà dân làng quê ông tổ chức giỗ, và cũng vào ngày 14 tháng 2, các đền thờ ông cũng mở tiệc để kỷ niệm ngày đản sinh của ông.

Trong khi thỉnh ông về, văn thường hát:

“Uy gia lẫm liệt tung hoành
Trừ tà sát quỷ nên danh tướng tài
… Ninh Giang chính quán quê nhà
Dấu thiêng ghi để ngã ba Kì Cùng”

Hay nói về nỗi oan của ông, văn hát sử oan rằng:

“Nào ngờ đâu đất trời thay đổi
Người anh hùng mang tội xiềng gông
Tháng năm đày chốn Kì Cùng
Oan vì tuyết nguyệt đổi lòng ái ân
Trước cung điện triều đình tra xét
Bắt long hầu truyền hết mọi nơi
Oan vì bướm lả ong lơi
Triết hoa đoạt vũ tội trời không dung
Lệnh viễn xứ sơn cùng thuỷ kiệt
Nỗi oan này có thấu cao minh
Áo bào đã nhuộm chàm xanh
Tấm thân bách chiến tử sinh lẽ thường ”

Hoặc có cả những đoạn ca ngợi công lao, tài đức của ông:

“Loa đồng hỏi nước sông Tranh
Đao thiêng dẹp giặc, anh hùng là ai
Sông Tranh đáp tiếng trả lời
Anh hùng lừng lẫy là người Ninh Giang”

Còn khi quan ngự đồng, khai quang chứng sớ điệp, ra oai giúp dân trừ tà thì văn lại hát rằng:

“Ông về truyền phán các quan
Tả cơ hữu đội lưỡng ban đáo đàn
Quân thuỷ quân bộ đôi hàng
Chư binh vạn mã hằng hà kéo ra
Lệnh truyền thiên đội vạn cơ
Quan Tuần bây giờ trắc giáng anh linh
Trước là bảo hộ gia đình
Sau ra thu tróc tà tinh phen này
Ra oai trần thế biết tay
Ngự lên đồng tử cứu rày nhân gian
Cứu đâu thời đấy khỏi oan…”

Và còn những đoạn nói về tài phép của quan lớn, giúp dân hộ quốc:

“Sắc ban phong kiêm chi Tam Giới
Hay tróc tà sát quỷ trừ tinh
Quan Tuần vạn phép muôn linh
Quyền ông cai quản âm binh nhà trời
… Lúc bấy giờ ra uy hùng hổ
Nương uy trời cứu hộ sinh nhân
Đùng đùng nổi trận phong vân
Thượng đồng ban dấu giúp dân trừ tà”