Luận Giải Ý Nghĩa Quẻ 09: Phong Thiên Tiểu Súc Chi Tiết Nhất Vừa Cập Nhật

Nội dung chính [Hiện]

Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc, hay còn được gọi là quẻ Tiểu Súc, là quẻ thứ 09 trong 64 quẻ của Kinh Dịch. Nó được biểu thị bởi nội quái là ☰ Càn hoặc Trời và ngoại quái là ☴ Tốn hoặc Gió. Trong văn Vương, quẻ này được viết thoán từ là "Tiểu Súc: Hanh", trong khi Chu Công viết hào từ là "Sơ cửu: Phục tự đạo, hà kỳ cữu? Cát. Cửu nhị: khiên phục, cát."

Ý nghĩa của quẻ Phong Thiên Tiểu Súc được hiểu qua hai khía cạnh chính: Hung và Cát.

  • Ý nghĩa Hung: Quẻ này mang đến sự bế tắc, không thông, và thường biểu thị những thời kỳ khó khăn, trở ngại trong cuộc sống. Mọi việc khó thực hiện, và có thể gặp phải sự tiêu cực từ những người xung quanh. Lời khuyên cho những người gặp phải quẻ này là nên lui về ở ẩn, tạm dừng và chờ thời cơ tốt hơn. Cuối cùng, sau những khó khăn và bế tắc, sẽ đến thời điểm đặc biệt để khai thông mọi khó khăn và bước vào giai đoạn thuận lợi hơn.

  • Ý nghĩa Cát: Cát biểu thị sự tích lũy nhỏ, tích chưa đủ. Trong ngữ cảnh của quẻ này, nó biểu thị rằng thời cơ vẫn chưa chín, và mặc dù bề ngoài có vẻ đã thuận lợi, nhưng thực tế vẫn cần chuẩn bị chu đáo hơn. Do đó, công việc tiến hành trong giai đoạn này có thể gặp khó khăn và cần phải tích lũy thêm kinh nghiệm và kiến thức.

Có thể hiểu đơn giản là quẻ Phong Thiên Tiểu Súc là một biểu tượng của những thử thách và trở ngại, nhưng cũng đồng thời mang trong mình cơ hội để học hỏi, tích lũy và chuẩn bị cho thời cơ tốt hơn trong tương lai. Hãy cùng chuyên gia của Tử Vi Hội Quán qua bài viết dưới đây

Ý nghĩa quẻ Phong Thiên Tiểu Súc trong Kinh Dịch

Tổng quan

Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc: là quẻ Bình, và Tiểu Súc được hiểu là tích lũy nhỏ, tích chưa đủ. Đây là một tình trạng khiến người ta cần phải tập trung vào việc trau dồi, tích lũy thêm kinh nghiệm và đức hạnh. Quẻ này thường biểu thị thời cơ chưa đủ chín để thực hiện một dự án lớn hay một hành động quan trọng. Mặc dù có vẻ như mọi thứ đã thuận lợi từ bề ngoài, nhưng thực tế là còn cần chuẩn bị và tích lũy thêm sức mạnh, tri thức, hay tâm huyết. Có thể hiểu rằng công việc hoặc kế hoạch đang tiến hành có thể chưa đạt được thành công nếu không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng và tích lũy đủ nguồn lực. Quẻ này khuyên bạn nên kiên trì, không nên vội vàng. Tích lũy thêm kiến thức, kỹ năng, hay tìm kiếm thêm sự hỗ trợ trước khi đưa ra những quyết định lớn. Hãy chờ đến thời điểm thích hợp để hành động, và sẵn sàng chuẩn bị tốt nhất có thể để đảm bảo sự thành công.

Ý nghĩa tượng quẻ: Mật Vân Bất Vũ" là "Mây Đen Dày Đặc". Mật Vân biểu thị những đám mây đen và dày đặc trên bầu trời, tạo ra một bức tranh u ám và u ám. Trong ngôn ngữ tượng trưng, ý nghĩa của Mật Vân Bất Vũ thường ám chỉ một tình hình khó khăn, trở ngại hoặc bế tắc trong cuộc sống hoặc trong quá trình thực hiện một nhiệm vụ quan trọng. Đám mây đen dày đặc biểu thị sự chậm trễ, không rõ ràng, và không có sự vận động. Nó cũng có thể biểu thị sự buồn bã, nỗi đau, hoặc sự bất an. Trong ngữ cảnh của quẻ này, "bất vũ" có thể hiểu là không có gió để thổi đi đám mây, làm cho chúng mịt mù và che phủ bầu trời, làm tăng sự ảm đạm và bế tắc. Vì vậy, ý nghĩa tổng quát của quẻ này là một thời kỳ khó khăn, trở ngại hoặc chậm trễ. Nó có thể làm cho cuộc sống trở nên u ám và không rõ ràng. Tuy nhiên, cũng có thể được hiểu là một cảnh báo để cẩn thận và kiên nhẫn, vì bầu trời sẽ không luôn mưa mùa và có lúc ánh sáng sẽ phá vỡ qua đám mây, đem lại hy vọng và sự tự tin mới.

Giải nghĩa quẻ Phong Thiên Tiểu Súc

|||:|| Phong Thiên Tiểu Súc (小畜 xiǎo chù)

Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc, đồ hình |||:|| còn gọi là quẻ Tiểu Súc (小畜), là quẻ thứ 09 trong Kinh Dịch.

Nội quái Càn ☰ (||| 乾 ) Càn hay Trời (天).

Ngoại quái Tốn ☴ (:|| 巽 ) Tốn hay Gió (風).

Ý nghĩa: Tắc dã. Dị đồng. Lúc bế tắc, không đồng ý nhau, cô quả, súc oán, chứa mọi oán giận, có ý trái lại, không hòa hợp, nhỏ nhen. Cầm sắt bất điệu chi tượng: tiếng đàn không hòa điệu.

Tự quái truyện bảo đã nhóm họp, gần vũi với nhau (tỉ) thì phải có chỗ nuôi nhau, cho nên sau quẻ Tỉ tới quẻ Tiểu súc [ 小 畜 ].  Chữ súc này có nghĩa là nuôi (như mục súc); lại có nghĩa là chứa, dùng như chữ súc tích (chứa chất), và nghĩa: ngăn lại, kiềm chế.

Thoán từ: Tiểu súc: Hanh: Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao. (小 畜 . 亨 . 密 雲 不 雨 . 自 我 西 郊 .)

Dịch: Ngăn căn nhỏ (hoặc chứa nhỏ vì chứa cũng hàm cái nghĩa ngăn, bao lại, gom lại) hanh thông. Mây kịt (chưa tan) mà không mưa ở cõi tây của ta.

Giảng: Có ba cách giảng theo tượng của quẻ:

  • Quẻ Càn (cương kiện) ở dưới quẻ Tốn (nhu thuận) có nghĩa là âm (Tốn) ngăn cản được dương (Càn), nhỏ ngăn cản được lớn.
  • Hoặc: Gió (Tốn) bay trên trời (Càn) còn xa mặt đất, sức ngăn cản của nó còn nhỏ, cho nên gọi là Tiểu súc.
  • Xét các hào thì hào 4 là âm nhu đắc vị; hào này quan trọng nhất trong quẻ (do luật: chúng dĩ quả vi chủ) ngăn cản được 5 hào dương , bắt phải nghe theo nó, cho nên gọi là Tiểu súc (nhỏ ngăn được lớn).

Ngăn được hào 2 và hào 5 đều dương cương thì việc chắc sẽ hanh thông. Nhưng vì nó nhỏ mà sức ngăn cản nhỏ, nên chưa phát triển hết được, như đám mây đóng kịt ở phương Tây mà chưa tan, chưa mưa được. Theo Phan bội Châu, chữ “ngã” (ta) ở đây trỏ Tốn, mà Tốn là âm, thuộc về phương Tây. Nhưng theo Hậu Thiên bát quái thì tốn là Đông Nam.

Chu Hi cho rằng chữ “ngã” đó là Văn Vương tự xưng. Khi viết thoán từ này, Văn Vương ở trong ngục Dữu Lý, mà “cõi tây của ta” tức cõi Kỳ Châu, ở phương Tây của Văn Vương.

Đại Tượng truyện khuyên người quân tử ở trong hoàn cảnh quẻ này (sức còn nhỏ) nên trau dồi, tài văn chương (ý văn đức) chẳng hạn viết lách, chứ đừng hoạt động chính trị.

Ý nghĩa hào từ quẻ phong thiên tiểu súc

Hào 1: 初 九 : 復 自 道 , 何 其 咎 ? 吉 .

Sơ cửu: Phục tự đạo, hà kỳ cữu? Cát.

Tượng: Trở về đạo lý của mình, có lỗi gì đâu. Tốt.

Giảng: Hào này là dương cương lại ở trong nội quái Càn, có tài, có chí tiến lên, nhưng vì ở trong quẻ Tiểu Súc, nên bị hào 4, ứng với nó ngăn cản. Nó đành phải quay trở lại, không tiến nữa, hợp với đạo tùy thời, như vậy không có lỗi gì cả.

Hào 2: 九 二 : 牽 復 , 吉 .

Cửu nhị: khiên phục, cát.

Tượng: Dắt nhau trở lại đạo lý thì tốt.

Giảng: Hào này với hào 5 là bạn đồng chí hướng: cùng dương cương, cùng đắc trung, cùng muốn tiến cả, nhưng cùng bị hào 4 âm ngăn cản, nên cùng dắt nhau trở lại cái đạo trung , không để mất cái đức của mình.

Hào 3: 九 三 : 輿 說 輻 , 夫 妻 反 目 .

Cửu tam: Dư thoát bức, phu thê phản mục.

Tượng: Xe rớt mất trục; vợ chồng hục hặc với nhau.

Giảng: Hào 3 quá cương (vì thể vị đều là dương) mà bất trung, hăng tiến lên lắm, nhưng bị hào 4 ở trên ngăn chặn, nên tiến không được, như chiếc xe rớt mất trục. Hào này ở sát hào 4, dương ở sát âm, mà không phải là ứng của hào 4, như một cặp vợ chồng hục hặc với nhau. Lỗi ở hào 3 vì không biết tùy thời, không nhớ mình ở trong thời Tiểu súc mà nhịn vợ.

Hào 4: 六 四 : 有 孚 , 血 去, 惕 出 . 无 咎 .

Lục tứ: hữu phu, huyết khứ, dịch xuất, vô cữu.

Tượng: Nhờ có lòng chí thành, nên thương tích được lành, hết lo sợ, mà không có lỗi.

Giảng: Hào này là âm, nhu thuận mà đối với các hào dương thì khó tránh được xung đột, có thể lưu huyết và lo sợ, nhưng nó đắc chính (âm ở ngôi âm), ở gần hào 5 là thân với bậc chí tôn, lại ở vào thời Tiểu súc, có hào 1 ứng hợp với nó, hào 2 cùng giúp nó, nên nó tránh được lưu huyết, lo sợ, không có lỗi.

Tiểu tượng truyện giảng: Hết lo sợ, nhờ hào trên ( hào 5) giúp đỡ nó.

Hào 5: 九 五 : 有 孚, 攣 如 . 富 以 其 鄰 .

Cửu ngũ: Hữu phu, luyên như, phú dĩ kỳ lân.

Tượng: Có lòng thành tín, ràng buộc dắt dìu (cả bầy hào dương ), nhiều tài đức , cảm hóa được láng giềng.

Giảng: Hào này ở ngôi chí tôn, có uy tín, làm lãnh tụ các hào dương khác; nó trung chính, tức có lòng thành tín, kéo các hào dương kia theo, mà giúp đở hào âm 4 ở cạnh, ảnh hưởng tới 4, sai khiến được 4, khiến cho 4 làm được nhiệm vụ ở thời Tiểu súc.

Chữ [ 攣 ] có người đọc là luyến và giảng là có lòng quyến luyến.

Hào 6: 上 九 : 既 雨, 既 處 , 尚 德 載 . 婦 貞 厲 . 月 幾 望 , 君 子 征 凶 .

Thượng cửu: Ký vũ, ký xử, thượng đức tái. Phụ trinh lệ. Nguyệt cơ vọng, quân tử chinh hung.

Tượng: Hào trên cùng, dương: Đã mưa rồi, yên rồi, đức nhu tốn của 4 đã đầy (ngăn được đàn ông rồi), vợ mà cứ một mực (trinh) ngăn hoài chồng thì nguy (lệ). Trăng sắp đến đêm rằm (cực thịnh), người quân tử (không thận trọng, phòng bị) vội tiến hành thì xấu.

Giảng: Đây đã tới bước cuối cùng của quẻ Tốn mà cũng là bước cuối cùng của quẻ Tiểu súc. Hào 4 đã thành công đến cực điểm , các hào dương hòa hợp với nó cả rồi, như đám mây kịt đã trút nước, mọi sự đã yên. Tới đó, hãy nên ngưng đi, cứ một mực ngăn chặn các hào dương thì sẽ bị họa đấy. Mà các hào dương (quân tử ) cũng nên lo đề phòng trước đi vì sắp tới lúc âm cực thịnh (trăng rằm) rồi đấy. Âm có nghĩa là tiểu nhân.

Đọc quẻ Tiểu súc này chúng ta nhớ tới Võ Hậu đời Đường và Từ Hi Thái Hậu đời Thanh. Họ như hào 4, thông minh, có tài, mới đầu nhu thuận, nhờ ở gần vua (hào 5), được vua sủng ái, che chở, lại lấy được lòng người dưới (hào 1, hào 2), gây phe đảng rồi lần lần “thống lĩnh quần dương “, cả triều đình phải phục tòng họ. Tới khi họ thịnh cực, sắp suy, bọn đại thần có khí tiết, mưu trí mới họp nhau lật họ. Ngoài đời không đúng hẳn như trong quẻ, nhưng cũng không khác mấy. Ở các thời đó, chắc nhiều nhà Nho Trung Hoa đọc lại quẻ này.