Luận Giải Ý Nghĩa Quẻ 05: Thủy Thiên Nhu Chi Tiết Nhất mới cập nhật

Nội dung chính [Hiện]

Trong hệ thống Bát Quái của Kinh Dịch, mỗi quẻ đều mang trong mình một tượng trưng sâu sắc về cuộc sống, vũ trụ và con người. Hôm nay, chúng ta sẽ bắt đầu một hành trình khám phá ý nghĩa chi tiết của Quẻ 05: Thủy Thiên Nhu.

Thủy Thiên Nhu, với tên gọi âm dương hài hòa, thể hiện sự cân bằng giữa yin và yang, nước và trời. Quẻ này đã luôn gợi ra nhiều suy tư và bàn luận về sự thanh tao, hòa hợp, và trí tuệ. Hãy cùng chúng tôi khám phá chi tiết về ý nghĩa sâu sắc của Thủy Thiên Nhu, và làm thế nào nó có thể tiên đoán cho cuộc sống của chúng ta trong thời đại ngày nay.

Tìm hiểu chi tiết ý nghĩa quẻ số 5 Thủy Thiên Nhu

Quẻ Thủy Thiên Nhu: Quẻ cát. Nhu có nghĩa là nhu thuận, mềm dẻo, nuôi dưỡng. Quẻ có ý nghĩa là hãy nên chờ đợi và kiên định, qua hiểm nguy rồi mới tiến. Thời vận sắp tới, còn phải chờ đợi một thời gian ngắn nữa, lúc đó triển khai công việc thì dễ thành công.

Ý nghĩa tượng quẻ: “Minh Châu Xuất Thổ” —> Thời vận đã đến (tốt)

Ý nghĩa quẻ thủy thủy thiên nhu

Nội quái Càn, ngoại quá Khảm

Ý nghĩa: Thuận dã. Tương hội. Chờ đợi vì hiểm đằng trước, thuận theo, quây quần, tụ hội, vui hội, cứu xét, chầu về. Quân tử hoan hội chi tượng: quân tử vui vẻ hội họp, ăn uống chờ thời.

Quẻ trước là Mông, nhỏ thơ; nhỏ thơ thì cần được nuôi bằng thức ăn, cho nên quẻ này là Nhu. Chữ Nhu này [ 需 ] là chữ nhu trong “nhu yếu phẩm”, những thứ cần thiết, tức thức ăn. Tự quái truyện giảng như vậy. Nhu đây còn có nghĩa nữa là chờ đợi, và theo cái tượng của quẻ thì phải hiểu là chờ đợi.

Thoán từ: Nhu: Hữu phu, quang hanh, trinh, cát. Lợi thiệp đại xuyên.

Dịch: Chờ đợi: có lòng thành thực tin tưởng, sáng sủa, hanh thông, giữ vững điều chính thì tốt. “Dù gặp việc hiểm như qua sông cũng sẽ thành công.

Giảng: Nội quái là Càn, cương kiện, muốn tiến lên nhưng gặp ngoại quái là Khảm (hiểm) chặn ở trên, nên phải chờ đợi.

Hào làm chủ trong quẻ này là hào 5 dương, ở vị chí tôn (ở quẻ này nên hiểu là ngôi của trời – theo Thoán truyện) mà lại trung, chính; cho nên có cái tượng thành thực, tin tưởng, sáng sủa, hanh thông; miễn là chịu chờ đợi thì việc hiểm gì cũng vượt được mà thành công.

Đại tượng truyện giải thích cũng đại khái như vậy: dưới là Càn, trời, trên là Khảm, mây (Khảm còn có nghĩa là mây); có cái tượng mây đã bao kín bầu trời, thế nào cũng mưa; cứ “ăn uống yến lạc” (ẩm thực yến lạc) yên vui di dưỡng thể xác và tâm chí mà đợi lúc mưa đổ.

Xem thêm: Cách lập quẻ kinh dịch theo thời gian nhanh và chuẩn xác

Ý nghĩa hào từ quẻ thủy thiên nhu

Hào 1: Nhu vu giao, lợi dụng hằng, vô cữu.

Tượng: Gặp thời buổi hiểm nguy, loạn lạc nhưng mà mình được cái may mắn còn ở xa nguy hiểm. Nên bắt chước Khổng Minh khi còn ở Ngọa Long Cương giữ tròn Đạo Lý, khí tiết, đừng vội dấn thân một cách vô lý vào nguy hiểm, phong trần, để mắc họa thất cơ, lỡ vận.

Lời giảng: Hào 1 là dương, cương kiện, sáng suốt mà ở xa ngoại quái là Khảm, tức xa nước, xa chỗ hiểm (cũng như còn ở ngòai thành, không gần sông nước), đừng nóng nảy xông vào chỗ hiểm nạn, cứ chịu chờ đợi thì không có lỗi. Chu Công khuyên như vậy vì hào dương này không đắc trung mà có ý muốn tiến.

Hào 2: Nhu vu sa, tiểu hữu ngôn, chung cát.

Tượng: Đợi ở bãi cát, tuy có khẩu thiệt một chút, nhưng sau sẽ tốt.

Lời giảng: Hào này đã gần quẻ Khảm hơn, ví như đã tới bãi cát ở gần sông, chưa tới nỗi sụp hiểm; mà hào lại đắc trung, cho nên tuy là dương cương mà biết khôn khéo, ung dung, không nóng nảy như hào 1, cho nên dù có điều tiếng nho nhỏ, rốt cuộc cũng vẫn tốt.

Hào 3: Nhu vu nê, trí khấu chí.

Tượng: Đợi ở chỗ bùn lầy, như tự mình mời giặc đến.

Lời giảng:  Hào này đã ở sát quẻ Khảm, tuy chưa sụp xuống nước, nhưng đã ở chỗ bùn lầy rồi; thể của nó là dương cương, vị của nó cũng là dương, mà lại không đắc trung, có cái “tượng rất táo bạo nóng nảy, làm càn, tức như tự nó mời giặc đến, tự gây tai họa cho nó. Nếu biết kính cẩn, thận trọng thì chưa đến nỗi nào, vì tai họa vẫn còn ở ngoài (ở ngoại quái) (theo tiểu tượng truyện).

Hào 4: Nhu vu huyết, xuất tự huyệt.

Tượng: Như đã chờ đợi ở chỗ lưu huyết mà rồi ra khỏi được.

Lời giảng: Hào này đã bắt đầu vào quẻ Khảm, tức chỗ hiểm (như vào chỗ giết hại), nhưng nhờ nó là âm, nhu thuận lại đắc chính (ở vị âm) , nên tránh được họa.

Hào 5: Nhu vu tửu thực, trinh cát.

Tượng: Chờ đợi ở chỗ ăn uống no say (chỗ yên vui), bền giữ đức trung chính thì tốt.

Lời giảng: Hào 5, địa vị tôn quí, mà là dương cương trung chính, cho nên tốt, nhưng muốn hạnh phúc được bền thì phải giữ đức trung chính.

Hào 6: Nhập vu huyệt, hữu bất tốc chi khách tam nhân lai, kính chi, chung cát.

Tượng: Hào trên cùng, âm: Vào chỗ cực hiểm rồi, nhưng có ba người khách thủng thẳng tới, biết kính trọng họ thì sau đựơc tốt lành.

Lời giảng: Quẻ này nằm ở vị trí cao nhất của biểu đồ Bát Quái và được gọi là Khảm, biểu thị một điểm đặc biệt và quan trọng. Có ba đường nét dương (tượng trưng cho sự tích luỹ và hoạt động) nằm ở dưới quẻ này, trong đó đường nét số 3 là dương. Điều này cho thấy sẽ có sự xuất hiện của ba người khách, tuy nhiên, họ không đến ngay vì họ ở xa vị trí âm 6 trong biểu đồ. Do đó, chỉ có những người thẳng thắn và kiên trì mới đến được.

Quẻ âm 6 liên quan đến phẩm chất Khiêm (sự khiêm tốn) và tính như thuận. Người ta cho rằng nếu biết lắng nghe và tuân theo lời khuyên của ba người khách, cuối cùng sẽ có sự giúp đỡ để tránh khỏi nguy hiểm và thuận lợi. Mặc dù quẻ 6 không có vị trí cao (âm vị) trong biểu đồ, nhưng nó không thất bại to lớn.

Triết gia Chu Hi hiểu từ "vị" như là ngôi chắn (âm vị), trong khi hào âm ở âm vị và "đáng" chứ không phải "bất đáng." Phan Bội Châu hiểu từ "vị" như là ngôi cao hoặc thấp; hào 6 ở trên cùng, tức là ngôi cao nhất, nhưng lại mang tính âm nhu, bất tài, cho nên nói "bất đáng" là phù hợp.

Xem thêm: Cách Lập Quẻ Kinh Dịch Bằng Gieo Đồng Tiền Xu Chi Tiết

Quẻ này chỉ cho ta cách xử thế khi chờ đợi, tùy họa ở gần hay ở xa, cốt nhất là đừng nóng nảy, mà phải giữ trung chính. Chúng ta để ý: hào 5 ở giữa quẻ Khảm, tức giữa cơn nguy hiểm mà Chu Công vẫn cho là tốt chỉ vì hào đó cương mà trung chính, nghĩa là cương một cách vừa phải, sáng suốt, chính đáng.