Tứ Phủ Thánh Cô - 12 thánh cô trong Tứ Phủ gồm những ai?

Nội dung chính [Hiện]

Tứ Phủ Thánh Cô là một phần quan trọng của tín ngưỡng Đạo Mẫu của Việt Nam, gồm 12 vị thánh cô được coi là thần linh bảo hộ và mang lại may mắn cho con người. Đứng sau Ngũ Vị Tôn Ông, Tứ Phủ Chầu bà, và Tứ Phủ Quan Hoàng. Tứ Phủ Thánh Cô đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tam phủ, tứ phủ và việc tôn vinh và thờ phụng các vị thánh cô của người dân Việt Nam.

Trong số 12 vị thánh cô, có 4 vị thánh cô thường xuyên được thờ phụng và ngự đồng tại các đền thánh, đó là Cô Đôi Thượng Ngàn, Cô Bơ Thoải, Cô Chín Sòng Sơn và Cô Bé Đông Cuông. Mỗi vị thánh cô đều có những đặc điểm và vai trò riêng biệt trong tâm linh của người Việt.

Cô Đôi Thượng Ngàn được biết đến với vai trò làm vợ của ông Phan, thủ lãnh của một thôn xóm. Cô được thờ với hi vọng bảo vệ gia đình khỏi tai ương và mang lại sự an lành, hạnh phúc.

Cô Bơ Thoải là thánh cô được tôn vinh như một thần thủy tổ, bảo vệ ngư dân và những người lướt sóng trên biển. Cô thường được thờ trong các lễ hội liên quan đến đời sống ven biển và ngư dân.

Cô Chín Sòng Sơn là vị thánh cô được liên kết với Đền Sòng Sơn, một ngôi đền linh thiêng tại Thanh Hóa. Cô thường được thờ phụng như một bảo vật quý giá, bảo vệ và mang lại sự an lành cho người dân xung quanh.

Cô Bé Đông Cuông được tôn vinh như một thần linh bảo hộ cho trẻ em, đặc biệt là trẻ sơ sinh. Người ta tin rằng việc thờ cúng và ngự đồng cô bé sẽ mang lại sức khỏe và may mắn cho trẻ em trong gia đình.

Tứ Phủ Thánh Cô không chỉ là nơi tôn vinh những vị thánh cô này mà còn là biểu tượng của niềm tin và tâm linh sâu sắc của người dân Việt Nam. Hãy cùng Tử Vi Hội Quán tìm hiểu về 12 vị thánh cô trong Tứ Phủ để hiểu hơn về thần tích cũng như một số đặc điểm của từng vị thánh cô khi ngự đồng.

Tượng Tứ Phủ Thánh Cô sơn son thếp vàng

1. Cô Đệ Nhất Thượng Thiên

Cô Đệ Nhất Thượng Thiên được xem là một trong những vị tiên nữ thần linh cao quý, có nguồn gốc từ Vua Cha dưới Thủy Tề và dưới Thoải Cung. Cô được phong là Thiên Cung Công Chúa trên Thiên Đình, vị trí cao quý trong thần thoại dân gian. Một số truyền thuyết cho rằng cô là đồng hành cùng Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên, tức Mẫu Liễu Hạnh, và thường được coi là tiên cô kề cận, tay biên tay chép bên cạnh Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên.

Cô Đệ Nhất Thượng Thiên thường được tôn vinh và thờ phụng trong các đền thờ, đặc biệt là trong Tứ Phủ Thánh Cô. Khi đến các đền phủ, người ta thường có lời tấu để cô kêu thay lạy đỡ trước cửa Vua Mẫu Đình Thần Tứ Phủ.

Dù là một vị thần linh cao quý, cô cũng thường xuất hiện dưới hình thức của một tiên cô thần thông, sẵn lòng giúp đỡ con người và mang lại sự bình an, hạnh phúc. Mặc dù ít khi ngự đồng, nhưng những người sát căn cô hay trong các dịp lễ hội quan trọng mới được chứng kiến cô xuất hiện trong hình dáng thần linh cao quý.

Một số người còn tin rằng có một đền thờ đặc biệt dành riêng cho Cô Đệ Nhất Thượng Thiên, tọa lạc trong đất Nghệ An giáp Thanh Hóa, và nơi đây còn nổi tiếng với món đặc sản bánh ngào.

Xem thêm: Tứ Phủ Thánh Hoàng gồm những ai? Sự tích về Thập Vị Quan Hoàng

2. Cô Đôi Thượng Ngàn

Cô Đôi Thượng Ngàn, ban đầu là con của Vua Đế Thích trên Thiên Cung, được phong là Sơn Tinh Công Chúa. Tuy nhiên, sau đó cô giáng sinh xuống đất Ninh Bình, trở thành con gái của một chúa đất ở chốn sơn lâm.

Một trong những truyền thuyết nổi tiếng về Cô Đôi Thượng Ngàn kể về cuộc đời và công danh của cô. Khi tỉnh Ninh Bình còn một vị quan lang tên là Hà, người Mường, ông ta và vợ sống một cuộc sống thiện đức và giúp đỡ người nghèo. Mặc dù họ đã cầu khẩn nhiều lần nhưng vẫn không có con. Cuối cùng, Ngọc Hoàng trên thiên giới nghe thấy lời cầu nguyện của họ và sai Cô Đôi xuống hạ giới để làm con của họ như một phần thưởng cho đức độ và thiện lương của họ. Cô Đôi được sinh ra trong một không gian tràn ngập niềm vui và hạnh phúc, được hoan nghênh bởi âm thanh của các loài chim quanh nhà.

Khi cô lên bốn tuổi, gia đình chuyển đến Huyện Cao Phong, tỉnh Hưng Hóa. Ở đó, dưới chân núi Đầu Rồng, có một con suối nước thần mát mẻ quanh năm. Cô thường xuyên ra suối gánh nước về giúp đỡ người dân nơi đó.

Khi cô lên mười hai tuổi, da trắng, tóc mượt, mặt tròn, lưng ong thon thả, cô đã thu hút sự chú ý của mọi người với vẻ đẹp tuyệt trần. Mẫu Thượng Ngàn muốn kiểm tra lòng người trần gian, nên biến thành một bà lão đói khát, bệnh tật, nằm dưới gốc cây đa dưới chân núi Rồng. Cô Đôi Thượng Ngàn, bằng lòng từ bi, đã giúp đỡ bà lão, và đúng lúc đó, bà lão biến thành Tiên Chúa Thượng Ngàn và công bố danh tính của mình với cô.

Tiên Chúa Thượng Ngàn nói với cô rằng cô đã làm việc thiện đức và có đức độ tốt. Trong kiếp trước, cô là tiên nữ trên tiên giới, và bây giờ đã đến lúc trở về tiên giới và trở thành một tiên trở về bên cạnh Tiên Chúa Thượng Ngàn. Sau đó, Tiên Chúa Thượng Ngàn trao cho cô một cây gậy khắc hình đầu rồng, và cô trở về nhà. Bốn ngày sau, cô đã hóa thân thành tiên và trở về bên cạnh Tiên Chúa Thượng Ngàn.

Đền chính của Cô Đôi Thượng Ngàn

Đền chính của Cô Đôi Thượng Ngàn nổi tiếng là hai ngôi đền ở địa phận Nho Quan, tỉnh Ninh Bình và huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, liên quan đến truyền thuyết về cuộc đời của cô. Đền Bồng Lai, còn được gọi là đền Bồng Lai Hạ, ở Nho Quan, Ninh Bình là nơi mà Cô Đôi được sinh ra. Trong khi đó, Đền Bồng Lai Thượng ở Cao Phong, Hòa Bình là nơi mà Cô Đôi hóa thân sau khi trở thành tiên.

Cô Đôi Thượng Ngàn cũng được thờ tại Đền Cô, cách đền Mẫu Đông Cuông khoảng 500m. Đây là một ngôi đền được xây dựng với quan niệm rằng cô là tỳ nữ bên cạnh Mẫu Thượng Ngàn. Khu du lịch tâm linh Hàn Sơn ở Thanh Hóa cũng có một ngôi đền thờ Cô Đôi Thượng Ngàn. Ngoài ra, Cô Đôi Thượng Ngàn thường được phối thờ tại các cung Tứ Phủ Thánh Cô hoặc một ban riêng ở các đền phủ khác.

Truyền thuyết khác về Cô Đôi Thượng Ngàn

Truyền thuyết khác về Cô Đôi Thượng Ngàn kể rằng sau này cô quyết định đi theo hầu Đức Diệu Tín Thuyền Sư Lê Mại Đại Vương, tức là Mẫu Thượng Ngàn, hay còn gọi là Bà Chúa Sơn Trang, để học đạo phép và giúp đỡ dân làng. Khi trở về thiên giới, cô được Mẫu Thượng Ngàn Đông Cuông Tuần Quán bố thí để cùng ngự cận bên cạnh Mẫu Thượng Ngàn, và được Mẫu Bà truyền cho vạn phép, giao nhiệm vụ dạy người dân rừng biết thống nhất về ngôn ngữ. Do đó, cô cũng được gọi là Cô Đôi Đông Cuông.

Khi cô đang ở thanh nhàn, cô Đôi Thượng Ngàn thường trở về ngự cảnh trên sơn lâm và núi rừng ở đất Ninh Bình quê nhà. Trong ba gian đền mát, cô cùng các bạn tiên nàng thường hát ca và vui thú tháng ngày trên sườn dốc Bò. Có khi cô biến hình ra dưới hình thái của một thiếu nữ xinh đẹp, thường thảo luận văn thơ và tri thức cùng các bậc danh sĩ. Tương truyền cô cũng rất giỏi văn thơ, làm biết bao kẻ phải mến phục.

Cô Đôi Thượng Ngàn cũng là tiên cô cai quản kho lộc Sơn Lâm Sơn Trang. Người trần gian nào có tâm tốt thường được cô ban thưởng, nhưng ngược lại, nếu có nợ mà không mau trả lễ, cô lại bắt đền nặng hơn. Cô cũng thường ngự về đồng, và danh tiếng của cô lừng lẫy khắp nơi. Đệ tử của cô đông vô số và cô cũng hay bắt đồng.

Khi cô về ngự, cô thường mặc áo lá xanh hoặc áo quần đen kết hợp với áo xanh ngắn đến hông. Trên đầu, cô dùng khăn đóng hoặc khăn von kết thành hình đóa hoa. Cô cũng có thể đội khăn đóng và thắt lét xanh, hai bên có cài hai đóa hoa. Khi đến đồng, cô thường khai cuông và múa mồi, múa tay tiên hái tài lộc .

Xem thêm: Tứ Phủ Công Đồng (Tứ Phủ Vạn Linh) gồm những vị nào?

3. Cô Ba Thoải Cung (Cô Bơ Bông)

Cô Bơ Bông, còn được biết đến với tên gọi Cô Ba Thoải Cung, được cho là con của Thủy Tề ở dưới Thoải Cung, và được phong là Thoải Cung Công Chúa. Một số truyền thuyết còn cho rằng, Cô Bơ Bông là con gái của vua Long Vương, với vẻ đẹp nết na, và được Đức Vương Mẫu (có người cho rằng có thể là Mẫu Cửu Trùng Thiên) chọn làm người hầu cận, chăm sóc trong cung cấm.

Sau đó, vào thời Lê Trung Hưng, có một sự tích được tường thuật như sau: Đức Thái Bà mơ thấy một người con gái xinh đẹp, với vẻ ngoài hoàn hảo, và sau đó hạ sinh ra được Cô Bơ Bông. Trong giấc mơ, người con gái này tỏ ra rất tinh tế và quý phái, mặc áo trắng và đính một viên minh châu lấp lánh. Cô này cho biết mình là Thủy Cung Tiên Nữ, và đã được lệnh lên phàm trần để giúp vua và giúp dân. Được lấy làm dấu hiệu của sự kiện này, Đức Thái Bà thụ thai và sinh ra Cô Bơ Bông.

Sau khi sinh ra vào ngày 2/8, Cô Bơ Bông lớn lên trở thành một người thiếu nữ xinh đẹp, có tài năng văn thơ và âm nhạc. Khi đất nước đang phải chịu sự áp bức từ quân Minh, cô cùng với thân mẫu lánh vào vùng Hà Trung, Thanh Hóa, nơi có ngã ba bến Đò Lèn và Phong Mục.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, Cô Bơ Bông đã có công giúp vua Lê trong những năm đầu kháng chiến. Một sự kiện nổi bật trong dân gian kể lại rằng, khi vua Lê Lợi bị quân địch đuổi đến ngã ba sông Thác Hàn ở Hà Trung, cô đã xuất hiện và giúp anh ta trốn thoát. Cô hướng dẫn Lê Lợi và anh trai của mình (do Lê Lợi đóng giả) giấu mình dưới trang phục nông dân và giả vờ tỉa ngô. Khi quân địch hỏi thăm, cô đã thông báo rằng chỉ có họ đang làm việc trên cánh đồng. Sự giúp đỡ này đã giúp vua Lê Lợi tránh khỏi nguy cơ bị bắt và tạo điều kiện cho sự thắng lợi sau này.

Lê Lợi biết ơn Cô Bơ Bông và hứa rằng sau khi chiến thắng, anh sẽ đưa cô về Triều Đình và phong cô làm phi tử. Sau này, khi cuộc kháng chiến chống quân Minh giành chiến thắng, vua Lê nhớ đến người thiếu nữ đã giúp đỡ mình ở Hà Trung. Tuy nhiên, khi quân đến đón cô, cô đã thác tự từ lâu, và người dân vẫn kể lại rằng cô đã kiên trì chờ đợi mặc dù không kết duyên cùng ai, cho đến khi cô thác hóa.

Cô Bơ Bông, hay còn gọi là Cô Bơ Thác Hàn, được lệnh Vua Cha giáng trần để giúp vua và nhân dân. Khi đến chí kì mãn hạn, xe loan lên đón cô về Thủy Cung. Tại đây, cô hiển linh và giúp dân chúng ở vùng ngã ba sông. Nhờ vào sự giúp đỡ của cô, thuyền bè qua lại được thuận buồm xuôi gió, vì vậy cô còn được biết đến với danh hiệu là Cô Bơ Bông.

Khi cô xuống đồng, dù già hay trẻ, sắc mặt của mọi người đều trở nên hồng hào tươi tốt, đẹp đẽ lạ thường. Cô thường mặc áo trắng và đầu đội khăn đóng, thường có thắt lét trắng và cầm đôi mái chèo. Khi chèo thuyền, cô thường khoác thêm chiếc áo choàng trắng và mang theo dải lụa để đo gió, đo nước, và đo mây.

Người ta thường đến đền Cô Bơ Bông để chiêm bái, cầu xin nhân duyên, và cầu may mắn trong công việc và học tập. Đền Cô Bơ là nơi có thắng cảnh "trên bến dưới thuyền" và giao của Ngũ huyện kê. Thuyền bè dưới bến sông qua lại đều phải đốt vàng mã kêu cô, và những người đến kêu cầu thường dâng cô nón trắng hài cườm và võng lụa thuyền rồng.

Một thần tích khác về Cô Bơ Bông

Theo "Lê Triều Thần Phả Ngoại Biên" ghi chép tại Thái Miếu họ Lê, vào khoảng năm 1432, vua Lê Lợi mơ thấy một nữ thủy thần tỏ ra là con gái của vua Thủy Tề. Thủy thần nhắc nhở vua Lê Lợi về lời hứa hẹn ước trước đó và nhà vua nên trả nợ. Vua Lê Lợi tỉnh giấc và nhớ lại rằng trong quá khứ, khi bị địch truy đuổi, ông đã được một cô gái xinh đẹp, đoan trang tỉa ngô cứu thoát tại ngã ba sông Thác Hàn ở Hà Trung.

Trong giấc mơ, vua Lê Lợi đã hứa gả cháu trai của mình, tướng quân Lê Khôi, cho cô gái này sau khi chiến thắng. Tuy nhiên, sau khi chiến thắng, vua không thể tìm thấy cô gái đó. Sau khi nhận ra rằng cô gái tỉa ngô chính là con gái của vua Thủy Tề, đã hiện thân để giúp vua, vua Lê Lợi đã phong cô là "Thượng Đằng Thần" và cho xây dựng đền thờ để tưởng nhớ công lao của cô.

Xem thêm: Tứ phủ chầu bà gồm các vị nào? thần tích và đền thờ

4. Cô Tư Ỷ La, Cô Tư Địa Phủ

Cô Tư Ỷ La, còn được biết đến là con của vua Đế Thích, ban đầu là hầu cận của Mẫu Thượng Ngàn tại đất Tuyên Quang theo lệnh của vua cha. Về sau, tại nơi Mẫu Thượng Ngàn ngự trọ, cô được tôn làm Cô Tư Ỷ La và được kính trọng với danh hiệu này. Trong các tư liệu ghi lại, đúng là Cô Tư hầu cận Mẫu Thượng Ngàn, không phải là hầu cận Chầu Bà Đệ Tứ Khâm Sai như nhiều người thường nghĩ. Cô Tư cũng được biết đến với danh hiệu Cô Tư Tứ Tổng Tây Hồ, có lẽ do cô từng giáng hiện tại đất Tây Hồ, Hà Nội và hiện nay vẫn được thờ tại đình Tứ Liên, một ngôi đình cổ nằm gần Phủ Tây Hồ, Hà Nội.

Trong hàng Tứ Phủ Tiên Cô, Cô Tư Ỷ La thường ít khi được thấy ngự về đồng, do đó việc phục trang và cung cách khi hầu giá Cô Tư hiện giờ là khá khó khăn. Tuy nhiên, dự đoán rằng khi hầu giá Cô Tư Ỷ La, cô có thể mặc xiêm áo màu vàng nhạt, khai cuông và múa mồi hầu Mẫu, tuy nhiên đây chỉ là ý kiến cá nhân và cần được tham khảo thêm.

Hiện nay, Cô Tư vẫn được coi là thờ chính cung hầu Mẫu Thượng Ngàn trong đền Mẫu Ỷ La tại thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Ngoài ra, cô còn được thờ tại Đình Tứ Liên (trước đây gọi là Đình làng Ngoại Châu) ở phường Tứ Liên, quận Tây Hồ, Hà Nội.

5. Cô Năm Suối Lân

Cô Năm Suối Lân ban đầu là một tiên nữ trên trời, nhưng sau đó được phái xuống trần làm người thiếu nữ dân tộc Nùng ở xứ Lạng. Cô được tôn làm Cô Năm Suối Lân hoặc Cô Năm Sông Hoá, tương truyền là người thị nữ thân cận bên Chầu Năm Suối Lân khi chầu còn là công chúa. Sau khi được sắc phong hiển thánh, Cô Năm vẫn được coi là tiên cô kề cận bên cửa Chầu Năm và được coi là tiên cô trông giữ bản đền Suối Lân.

Cô Năm Suối Lân được tôn là vị thánh trấn tại cửa rừng Suối Lân, và dòng Suối Lân do cô quản lý được coi là suối thiêng liêng, nước suối luôn trong xanh và không bao giờ cạn. Ai đến chiêm bái trên đất Lạng đều phải qua bái yết cửa Chầu Năm và Cô Năm Suối Lân. Nước suối của Cô Năm được tưởng là có khả năng chữa bệnh, giảm đau nhức.

Cô Năm Suối Lân được tưởng là có phép anh linh, có khả năng xát lá han khiến kẻ báng nhạo cô cảm thấy ngứa ngáy không yên, và có thể lạc đường rừng. Trong hàng thánh cô, Cô Năm Suối Lân ít khi ngự đồng hơn Cô Sáu Lục Cung, và khi hầu về giá Cô Năm Suối Lân, người ta thường mặc xiêm y như màu áo của Chầu Năm và khai cuông rồi múa mồi.

Hiện nay, Cô Năm Suối Lân được phụng thờ là thánh cô trấn giữ cửa Suối Lân Sông Hoá, và cung thờ cô được đặt cạnh ngay đền chính của cửa Chầu Năm Suối Lân, tại huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn.

Xem thêm: Tam Tòa Thánh Mẫu gồm những vị nào?

6. Cô Sáu Lục Cung, Cô Sáu Sơn Trang

Cô Sáu Lục Cung, hay còn được biết đến với danh hiệu Cô Sáu Sơn Trang, là một thánh cô xuất thân từ dân tộc Nùng ở đất Hữu Lũng, Lạng Sơn. Có những thuyết khác nhau về nguồn gốc của Cô Sáu, một số thuyết cho rằng cô là tiên cô kề cận bên cửa Chúa Thượng Ngàn ở đất Trang Châu, trong khi phần lớn thống nhất rằng Cô Sáu là người kề cận Chầu Lục Cung Nương, từ đó cô được biết đến với danh hiệu Cô Sáu Lục Cung hoặc Cô Sáu Sơn Trang.

Theo truyền thống, khi nhân dân xây dựng đền thờ phụng Chầu Bà, họ thường tôn Cô Sáu là thánh cô trấn bản đền Lục Cung. Cô Sáu Lục Cung được biết đến với tài năng chữa bệnh và cứu người, thường đi khắp rừng sâu và núi thẳm để hái thuốc cứu người. Khi được tôn thánh, Cô Sáu vẫn được coi là tiên cô có khả năng chữa bệnh và cứu người, thu hút đám đông tìm đến cửa cô để xin thuốc tiên.

Cô Sáu Sơn Trang nổi tiếng với sự nghiêm khắc và trừng trị những kẻ nhạo báng cô. Trong hàng Tứ Phủ Thánh Cô, Cô Sáu Lục Cung thường ngự đồng và được tôn thờ. Các thanh đồng đạo quan thường thỉnh bóng Cô Sáu Sơn Trang ngự đồng không chỉ khi về đền Lục Cung mà còn trong những dịp hầu vui và đón tiệc tiên thánh.

Cô Sáu Sơn Trang thường mặc áo lam hoặc áo tím chàm, áo ngắn vạt rộng tay, và khi ngự đồng, cô khai cuông rồi múa mồi như các tiên cô khác trên Thượng Ngàn. Hiện nay, Cô Sáu Lục Cung là thánh cô trấn giữ bản đền Lục Cung Chín Tư, cung thờ cô được xây ngay cạnh chính cung đền Chầu Lục Cung Nương tại Chín Tư, Hữu Lũng, Lạng Sơn.

7. Cô Bảy Tân La, Cô Bảy Kim Giao, Cô Bảy Mỏ Bạch

Cô Bảy Kim Giao, hay còn được biết đến với danh hiệu Cô Bảy Mỏ Bạch, là một tiên cô xuất thân từ dân tộc Mọi ở đền Kim Giao, Mỏ Bạch, Thái Nguyên. Theo một số truyền thống, cô cũng được xem là người kề cận bên Chầu Bảy, từ đó được gọi là Cô Bảy Kim Giao hoặc Cô Bảy Tân La khi theo hầu cận Chầu Bảy tại đền Tân La.

Cô Bảy được tôn vinh là vị thánh cô có công giúp người dân Mọi biết trồng trọt chăn nuôi, cũng như tham gia vào cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phương Bắc. Cô thường được miêu tả là hội họp cùng các bạn tiên nàng đêm đêm, mắc võng đào giữa hai cây kim giao và cùng đàn hát.

Trong hội đồng Thánh Cô, Cô Bảy Kim Giao ít khi ngự đồng, nếu không nói là hầu như không thấy. Do đó, việc diễn đạt chi tiết về y phục và cung cách hầu giá của Cô Bảy là khó khăn. Tuy nhiên, phỏng đoán cho thấy Cô Bảy Kim Giao có thể mặc áo tím hoặc chàm xanh, và khi ngự đồng, cô khai cuông rồi múa mồi.

Hiện nay, Cô Bảy vẫn được thờ làm cô bản đền tại chính cung Đền Kim Giao ở Thanh Liên, Mỏ Bạch, Thái Nguyên, cũng như tại đền Tân La ở Dốc Lã, Bảo Khê, Hưng Yên. Khi hầu tráng mạn đến giá Cô Bảy Kim Giao, các thanh đồng thường diễn đạt sự tôn kính và tôn trọng.

8. Cô Tám Đồi Chè

Cô Tám Đồi Chè được xem là một nhân vật quan trọng trong lịch sử dân tộc, được cho là xuất hiện vào thời kỳ của vua Lê Thái Tổ trong thời gian dấy binh khởi nghĩa chống lại giặc ngoại xâm. Cô được mô tả là một thiếu nữ sống tại vùng Phong Mục, Hà Trung, Thanh Hoá, nơi mà chè là một cây trồng phổ biến. Cô nổi tiếng với việc trồng và hái búp chè xanh trên đồi, và sử dụng chúng để chữa bệnh cho người dân, được gọi là Cô Tám Đồi Chè do sự tận tâm và lòng nhân ái của mình.

Trong thời gian kháng chiến chống giặc, Cô Tám Đồi Chè được ghi nhận đã có những đóng góp quan trọng giúp vua và quân đội trong các cuộc chiến tranh. Vì công lao của mình, sau khi thác hoá về trời, cô được tôn vinh và phong làm thánh cô, được xây dựng đền thờ để trấn giữ tại một bên bến song Đò Lèn, Phong Mục.

Cô Tám Đồi Chè được mô tả là một người con gái đảm đang, nết na, và tần tảo trong cách ứng xử. Khi không có công việc, cô thường thích dạo chơi khắp vùng Hà Trung, Thanh Hoá. Đôi khi, cô được cho là xuất hiện trên dòng sông Mã, điều khiển một chiếc thuyền độc mộc, tạo ra hình ảnh linh thiêng và bí ẩn trong tâm trí của người dân địa phương.

Những câu chuyện và truyền thống về Cô Tám Đồi Chè đã được lưu truyền và kế thừa qua nhiều thế hệ, và hiện nay, đền thờ của cô vẫn được tôn trọng và thờ phụng tại vùng Phong Mục, Hà Trung, Thanh Hoá, giữ trong lòng người dân một niềm tin sâu sắc vào sức mạnh và lòng nhân ái của thánh cô này.

Trong hàng Tứ Phủ Thánh Cô, Cô Tám Đồi Chè hiếm khi xuất hiện trong các buổi ngự đồng, chỉ thấy khi có người liên quan đến Cô Tám hoặc trong các dịp đặc biệt như tiệc tháng 6 tại các đền ở vùng Thanh Hoá. Khi tham gia ngự đồng, Cô Tám Đồi Chè thường mặc áo xanh quầy đen (có thể là áo tím hoa cà ở một số nơi). Sau khi khai quang, cô thường thể hiện các động tác múa mồi, và sau đó là múa tay tiên theo các điệu như người đi hái chè trên non.

Hiện nay, đền thờ của Cô Tám Đồi Chè được tách riêng và được thờ tại địa điểm đền cô thuộc đất Phong Mục, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá. Đền thờ này rất khang trang, tuy nhiên ít người biết đến so với những đền thờ khác trong khu vực. Nếu đi từ đền Cô Bơ, người ta có thể qua đò Lèn để đến đền của Cô Tám Đồi Chè.

9. Cô Chín Sòng Sơn (Cô Chín Cửu Tỉnh, Cô Chín Giếng)

Cô Chín Sòng Sơn, còn được gọi là Cô Chín Cửu Tỉnh hoặc Cô Chín Giếng, là một đền thờ nằm tại phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn, Thanh Hóa. Đến đền Cô Chín Sòng Sơn từ Hà Nội về Thanh Hóa, bạn sẽ thấy đền Mẫu Sòng ở bên phải đường, trong khi đền Cô Chín Sòng Sơn nằm ở bên trái, cách nhau khoảng 500m.

Theo truyền thống, Cô Chín được cho là hầu cận của Chầu Cửu hoặc Mẫu Cửu, nhưng một số tài liệu lại cho rằng Cô Chín là hầu cận của Mẫu Thoải.

Theo truyền thuyết, Cô Chín Sòng Sơn ban đầu là một tiên nữ sống trên Thiên Đình. Một lần, cô vô tình đánh vỡ một chén ngọc, làm cho Ngọc Hoàng giáng xuống hạ giới để theo hầu Mẫu Liễu Hạnh. Khi giáng xuống trần gian, Cô Chín đã đi khắp nơi và sau đó định cư tại Thanh Hóa. Cô xây dựng nhà ở và được dân chúng tôn thờ sau khi họ nhận được sự giúp đỡ từ cô. Người ta thường dâng Cô Chín võng đào, có lẽ do cây đào là một biểu tượng của sự may mắn và thịnh vượng.

Cô Chín Sòng Sơn được tôn thờ như một thánh cô có nhiều quyền phép. Những người tin rằng họ có căn cô này thường được coi là có khả năng xem bói, chữa bệnh và gọi hồn. Tuy nhiên, trong truyền thống, khi giáng hầu, Cô Chín thường chỉ cho thuốc chữa bệnh mà không có các quyền phép khác.

Cô Chín là một Thánh Cô nổi tiếng nhất trong các Thánh Cô, vì vậy hầu hết các đền và phủ đều có thờ Cô Chín. Khi giáng hầu, Cô Chín thường mặc áo hồng phơn phớt màu đào phai và cô múa quạt tiến Mẫu. Đôi khi cô cũng múa cờ tiến Vua hoặc thêu hoa dệt lụa, rồi lại múa cánh tiên. Ai cầu đảo cô đều sắm sửa lễ vật như nón đỏ, hài hoa, vòng hồng hay võng đào.

Cô Chín được thờ tại nhiều đền và phủ khác nhau:

  • Đền Cô Chín Sòng Sơn tại phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn, Thanh Hóa.
  • Đền Cô Chín Thượng Bắc Giang.
  • Đền Cô Chín Suối Rồng.
  • Đền Cô Chín Tây Thiên.

Tại các đền phủ, Cô Chín có thể có ban thờ riêng hoặc thờ chung với các Thánh Cô khác như Cô Bơ, hoặc thờ chung trong Cung Tứ Phủ Thánh Cô. Cũng có trường hợp Cô Chín được thờ ở một Lầu Cô riêng biệt, chẳng hạn như Cung Cô Chín ở đền Mẫu Sòng Sơn hoặc Cung Cô Chín ở Phủ Quảng Cung.

10. Cô Mười Mỏ Ba (hay Cô Mười Đồng Mỏ)

Cô Mười Mỏ Ba, hay còn được gọi là Cô Mười Đồng Mỏ, là một thần linh trong thần thoại dân gian Việt Nam. Cô được tôn vinh và thờ phụng như một thánh linh với tư cách là một người hầu cận của Chầu Mười Mỏ Ba, người được xem là bảo vệ của vùng đất và dân làng.

Theo truyền thuyết, Cô Mười Đồng Mỏ đã giúp vua trong cuộc chiến chống lại quân giặc của Ngô. Trong những trận chiến, cô được miêu tả mặc áo vàng, cầm cung kiếm, và cưỡi trên một con ngựa, dẫn đầu theo chầu bà vào cuộc chiến. Sau chiến thắng, cô được thờ tại đền Chầu Mười, nơi mà người dân đến cầu nguyện và tôn vinh cô.

Cô Mười Mỏ Ba được coi là biểu tượng của sức mạnh, can đảm và lòng dũng cảm, là nguồn cảm hứng cho những người dân tin tưởng vào sức mạnh bảo vệ và sự ủng hộ của các thần linh trong cuộc sống hàng ngày.

11. Cô Bé Thượng Ngàn

Cô Bé Thượng Ngàn là một tiên nữ hay thần linh trong văn hóa dân gian Việt Nam, thường được gọi theo tên các địa danh hoặc các đền thờ. Các cô bé Thượng Ngàn thường được tưởng nhớ và thờ phụng trên Tòa Sơn Trang, là những người hầu Mẫu Thượng Ngàn, một vị thần linh quan trọng trong văn hóa dân gian.

Các cô bé Thượng Ngàn thường mặc quần áo thổ cẩm, chân quấn xà cạp, đeo trang sức bạc như kiềng, và mang theo các phụ kiện như ô và gùi. Hình ảnh của họ thường phản ánh sự gần gũi với thiên nhiên và văn hóa dân gian, thể hiện sự mộc mạc và bình dị. Cô bé Thượng Ngàn được coi là biểu tượng của sự bình an và hạnh phúc trong cuộc sống hàng ngày, và thường được tưởng nhớ và thờ phụng như một vị thần bảo hộ của vùng đất đó. 

Cô Bé Thượng Ngàn (thành phố Lạng Sơn)

Cô Bé Thượng Ngàn được tôn vinh và thờ cúng tại nơi thờ chính cung tại thành phố Lạng Sơn. Ngôi đền nằm gần sát sông Kỳ Cùng, và đây được coi là nơi linh thiêng nơi Cô Bé Thượng Ngàn thường được tôn vinh và thờ phụng. Các tín đồ thường đến đây để cầu nguyện và tôn vinh Cô Bé Thượng Ngàn, hi vọng nhận được sự bảo trợ và may mắn từ vị thần này.

Cô Bé Suối Ngang (Hữu Lũng)

Cô Bé Suối Ngang được thờ cúng tại ngôi đền nằm trong rừng thuộc xã Phố Vị, huyện Hữu Lũng. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có thông tin cụ thể về thần tích hay câu chuyện liên quan đến Cô Bé Suối Ngang. Có thể đó là một trong những vị thần địa phương được tôn vinh và thờ cúng bởi người dân trong khu vực, nhưng thông tin về vị thần này có thể chưa được ghi chép hoặc truyền tải rộng rãi.

Cô Bé Đông Cuông (Yên Bái)

Cô Bé Đông Cuông được tôn thờ tại ngôi đền nằm gần đường vào đền Mẫu Đông Cuông, cách đền Mẫu khoảng vài trăm mét. Tuy nhiên, thông tin về thần tích hoặc câu chuyện liên quan đến Cô Bé Đông Cuông vẫn chưa rõ ràng hoặc không được ghi chép rõ ràng. Đôi khi, các vị thần địa phương như Cô Bé Đông Cuông được tôn vinh và thờ cúng bởi cộng đồng dân cư địa phương mà không có nhiều thông tin được ghi lại hoặc truyền tải rộng rãi ngoài vùng.

Cô Bé Chí Mìu

Cô Bé Chí Mìu được tôn thờ tại Đền Cô Bé Chí Mìu, nằm ở bản Chí Mìu, xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Cô bé Chí Mìu được xem như là một biến thể hoặc biệt danh của Cô Bé Thượng Ngàn, với việc tên gọi của cô được lấy từ địa danh của ngôi đền nơi cô được thờ cúng. Mọi người thường gọi cô bằng tên Cô Bé Chí Mìu để phân biệt với các vị thần khác. Cô Bé Chí Mìu được coi là một trong những Cô Bé Thượng Ngàn nổi tiếng nhất trong số các vị thần cô bé Thượng Ngàn.

Cô Bé Tân An (Lào Cai)

Cô Bé Tân An, còn được biết đến với tên gọi Đền Cô Bé Thượng Ngàn, là một ngôi đền nằm tại thôn Tân An 2, xã Tân An, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, bên bờ sông Hồng. Đây là nơi thờ tự của một nữ chúa có tên gọi là Hoàng Bà Xa, theo truyền thuyết được cho là con gái của đức quan Nguyễn Hoàng Bảy. Hoàng Bà Xa được tôn vinh vì công lao trong việc chinh phạt giặc ác, bảo vệ vùng đất Bảo Hà và Khau Ban, và được cư dân địa phương suy tôn là vị Thánh Mẫu. Đền Cô Bé Tân An đối diện với đền Bảo Hà ở huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai, nơi thờ đức quan Nguyễn Hoàng Bảy. Do Hoàng Bà Xa là con gái của Nguyễn Hoàng Bảy, nên cô còn được gọi là Cô Bảy Tân An. Đây là một trong những ngôi đền lịch sử và tôn nghiêm ở vùng đất này, nơi mà cư dân thường tới để tôn vinh và cầu nguyện.

Cô Bé Cây Xanh (Bắc Giang)

Cô Bé Cây Xanh ở Bắc Giang được tôn vinh theo hầu Mẫu Thượng Ngàn, với hiện thân được cho là Quế Mỵ Nương Công chúa. Theo truyền thuyết, Mỵ Nương Công chúa được coi là hiện thân của Mẫu Thượng Ngàn tại vùng Suối Mỡ. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có thông tin chi tiết về thần tích và truyền thuyết cụ thể về Cô Bé Cây Xanh ở địa điểm này. 

Cô Bé Cây Xanh (Tuyên Quang)

Cô Bé Cây Xanh tại Tuyên Quang là người hầu cận của Mẫu Thượng Ngàn tại bản đền Cây Xanh, còn được biết đến với tên gọi Đề Cảnh Xanh. Đây là ngôi đền thờ chính của Mẫu Thượng Ngàn tại địa phương này. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có thông tin chi tiết hoặc thần tích cụ thể về Cô Bé Cây Xanh ở đây. Điều này có thể là do thông tin về nguyên thần và truyền thuyết đang được nghiên cứu và thu thập.

Cô Bé Nguyệt Hồ (Bắc Giang)

Truyền thuyết về Cô Bé Minh Lương từ thời nhà Trần (thế kỷ XV) kể về một cặp vợ chồng sống tại tổng Minh Lương, thuộc xã Lang Quán, Tuyên Quang. Ông chồng là người Dao và bà vợ là người Mường, tuổi đã cao mà vẫn chưa có con. Mỗi ngày, họ ra ngòi Lịch xúc tôm tép sống lần hồi để kiếm sống. Một ngày, khi ông ở nhà, bà đi xúc tép như thường lệ, nhưng chỉ thu được hai quả trứng lạ. Bực mình, bà quyết định mang về và thả vào chum nước dưới cầu thang. Ít lâu sau, bà mang thai và sinh ra một cô bé bụ bẫm, được đặt tên là Minh Lương. Đồng thời, hai quả trứng trong chum nước cũng nở ra hai con rắn.

Hai con rắn và cô bé Minh Lương cùng lớn lên và trở thành bạn thân của nhau. Tuy nhiên, một buổi chiều, khi ông bà trở về và nhìn thấy hai con rắn quấn chết cô bé, ông tức giận và sử dụng con dao rựa để đuổi chúng. Hai con rắn sợ hãi và chạy trốn, nhưng một con bị chém đứt đuôi. Ông đuổi theo chúng và nói: “Cụt đi hang Mang, Khoang đi hang Đồng”.

Ông bà xót thương cô bé và không nỡ chôn cô, nên đặt cô nằm trên sàn. Sáng hôm sau, dân làng thấy mối đùn lên và đắp mộ cho cô bé, tin rằng cô đã linh hoá, và do đó lập miếu thờ cô. Trong thời kỳ giặc Cờ Đen, cô bé Minh Lương được cho là hiển linh và giúp quân triều đình thoát khỏi rừng rậm, sau đó dũng cảm đánh đuổi giặc Cờ Đen ra khỏi vùng đất. Ngoài ra, cô còn được cho là hiển linh bốc thuốc, giúp dân chữa bệnh và thoát khỏi cơn hiểm nghèo.

Cô Bé Minh Lương (Tuyên Quang)

Câu chuyện về Cô Bé Minh Lương ở Tuyên Quang là một truyền thuyết đầy sức mạnh và ý nghĩa. Theo câu chuyện, vào thời nhà Trần, ở tổng Minh Lương, có một cặp vợ chồng gặp phải khó khăn trong việc sinh con. Hàng ngày, họ ra ngòi Lịch xúc tôm tép, nhưng một ngày nọ, thay vì tôm tép, họ chỉ thu được hai quả trứng lạ. Bực tức, người vợ quyết định thả hai quả trứng đó vào chum nước dưới cầu thang.

Ít lâu sau, người vợ mang thai và sinh ra một cô bé bụ bẫm, được đặt tên là Minh Lương. Đồng thời, hai quả trứng được thả vào chum nước cũng nở ra hai con rắn. Hai con rắn và cô bé Minh Lương trở thành bạn thân và lớn lên cùng nhau.

Một ngày, khi ông bà trở về nhà và nhìn thấy hai con rắn quấn chết cô bé, ông tức giận và sử dụng con dao rựa để đuổi chúng. Trong sự tức giận, ông đã chém một con rắn, khiến nó bị chấn thương. Ông bà xót thương cô bé và không chôn cô, thay vào đó để cô nằm trên sàn. Khi sáng mai, họ phát hiện một mối đùn đã lên đắp mộ cho cô bé, tin rằng cô đã linh hoá, và dân làng lập miếu thờ để tôn vinh cô.

Trong thời kỳ chiến tranh với quân giặc Cờ Đen, Cô Bé Minh Lương đã hiển linh giúp quan quân triều đình thoát khỏi rừng rậm và dũng cảm đối đầu và dẹp sạch giặc. Bên cạnh đó, cô còn được biết đến là người giúp dân chữa bệnh thoát khỏi cơn hiểm nghèo bằng cách bốc thuốc, thể hiện lòng nhân ái và trách nhiệm với cộng đồng.

Cô Bé Thác Bờ (Hòa Bình)

Cô Bé Thác Bờ, hay còn được gọi là Cô Bé Hòa Bình, là một vị thánh cô được tôn thờ tại đền Chúa Thác Bờ Vầy Nưa, Đà Bắc, Hòa Bình. Cô bé này được tưởng nhớ là một hầu cận của Chúa Thác Bờ, nhưng hiện vẫn chưa có thông tin cụ thể về thần tích của cô. Mặc dù nguồn gốc và thông tin về cô vẫn còn mơ hồ, sự tôn kính và lòng tin vào cô Bé Thác Bờ vẫn được duy trì và truyền đạt qua các thế hệ.

Đặc biệt, người dân trên vùng Hòa Bình đặc biệt tin tưởng và tôn thờ Cô Bé Thác Bờ, thể hiện qua việc duy trì các nghi lễ và lễ hội tôn vinh cô. Mặc dù thông tin về cô Bé Thác Bờ vẫn còn mơ hồ, nhưng sự tôn kính và lòng tin của cộng đồng đã giữ cho hình ảnh của cô vẹn nguyên và được tôn trọng.

Cô Bé Sóc (Miền Nam)

Cô Bé Sóc, hay còn được gọi là Cô Bé Đen, là một vị thần trong tín ngưỡng dân gian ở miền Nam Việt Nam. Cô bé được tưởng nhớ trong trang phục màu đen và hồng, thường được thần dân tín hâm mộ và tôn thờ trong các lễ hội và nghi lễ tại miền Nam.

Theo truyền thuyết, Cô Bé Sóc là một nhân thần và được coi là người kề cận Mẫu Chúa Bạch và cô Ba Sa Thạch. Cô được tưởng nhớ và thờ cúng tại thị xã Bình Long, tỉnh Bình Dương. Trong các nghi lễ, cô bé thường được tôn vinh bằng việc múa mồi và sử dụng nhang để chữa bệnh.

Cô Bé Sóc được cho là hiển thánh trong phạm vi một buôn làng và thường được gọi là "sóc Mọi" bởi người dân Sài Gòn. Trong các nghi lễ, cô thường được đánh phấn màu đen, và những lễ vật dâng cô thường là khoai lang sống. Sự tôn vinh và lòng tin vào Cô Bé Sóc vẫn được duy trì và phát triển trong cộng đồng dân gian ở miền Nam Việt Nam.

Cô Bé Mỏ Than (Tuyên Quang)

Truyền thuyết kể rằng, Thần Kim Quy đã phát hiện mỏ quý của vua cha mẫu mẹ tại đền Mỏ Than và quyết định rủ cá Kình từ biển Đông đến vùng Nam Hải cùng nhau để mang hết mỏ quý đi. Khi đến nơi, đất ở đây chỉ còn là giữa núi và biển, và cá Kình đã đứng gác bên ngoài.

Thần Kim Quy xuống hang và khi lên tới gần miệng hang, ông Cóc ở gần miếu Sơn Thần đã nghiến răng báo lên thiên đình cho Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngọc Hoàng đã gửi cô Mười xuống, cưỡi trên lưng hai con rồng bay xuống và thấy khoảng trời u ám có khí lạnh bay lên. Cô nhảy vội xuống với hai vết chân chẹn lên thần Kim Quy, vết chân phải trượt gót mờ, bàn chân trái đè oằn cổ rùa.

Cô bắt rùa và thần Kim Quy hoá đá, khiến cá Kình ở biển Đông cũng hoá đá. Tất cả các cảnh quan của đền đều quay về phía nơi phật ngự phương tây, chỉ riêng cá Kình quay về phía Đông Bắc.

Nhờ Cô Bé Mỏ Than mà bách gia trăm họ vẫn còn giữ được "mỏ tụ đồng" xưa, một nguồn tài nguyên quý giá cho cộng đồng. Đến Pháp, người ta đã tìm ra mỏ than, hay còn gọi là "vàng đen" của đất nước, và hiện nay còn nuôi dưỡng mỏ kim cương non tại đây. Do đó, truyền thuyết về Cô Bé Mỏ Than, hay còn gọi là Cô Bé Mỏ Cây Xanh, vẫn tồn tại và được truyền miệng qua các thế hệ.

Cô bắt ông Ba Mươi phủ phục bên mình, và cầu xin vua cha mẫu mẹ cho cây xanh bao bọc lấy mỏ, cùng với bốn mùa để toả bóng mát cho cô hoàn thành công việc của cha mẹ.

Ngoài ra, cô còn chữa bệnh cho bách gia trăm họ, đặc biệt là những người dở dại, dở điên. Trong những lúc thư giãn, cô gọi đàn chim ngũ sắc về vây quanh và hát ca, mang lại sự bình yên cho mọi người. Khi đi và về, cô thường mang sắc thái màu vàng trên cổ, kèm theo âm thanh của tiếng chim vàng anh, báo hiệu và biến.

Khi cô đi xa, cô thường để lại đôi dải thắt lưng màu đen ở lại để giữ đền giữ phủ. Người ta truyền rằng ai nhìn thấy con rắn có mào là người đó được lên danh lên giá, nhưng điều kiện là người đó phải là người thực tâm không có tâm tà. Xưa kia, những người phụ nữ có thai phải đi vòng qua cửa cô cách nữa dặm. Bất kể ai đi qua nơi cô ngự đều phải bỏ nón mũ xin cô phù hộ. Tâm tà của ai gây ra náo loạn trong cộng đồng sẽ bị cô xua đuổi.

12. Cô Bé Thoải Cung (Cô Bé Thủy Cung)

Cô Bé Thoải Cung, hay còn được biết đến là Cô Bé Thủy Cung, là một trong ba vị Cô Bé thuộc hàng Tứ Phủ Thánh Cô, được tôn thờ và coi là một linh tài giỏi, luôn đồng hành bên Mẫu Thoải. Cô cũng là một vị thần được thờ tự tại nhiều ngôi đền thuộc về Thoải Phủ, và hàng năm, nhiều người tới lễ khấn lạy cô để xin tài lộc và bình an cho gia đình và người thân.

Cô Bé Thoải Cung là vị thánh cô cuối cùng trong Tứ Phủ Thánh Cô và thường được miêu tả mặc áo dài trắng, đầu chít khăn hoặc vấn nét trắng. Mặc dù có nhiều sự tích lưu truyền về Cô Bé Thoải Cung trong dân gian, thế nhưng thông tin về thân thế của cô và cách cô hiển linh để giúp dân vẫn là một bí ẩn.

Hiện nay, người ta biết đến cô như một vị thánh cô trong Tứ Phủ Thánh Cô với sự năng lực phi thường. Cô có khả năng hô mưa gọi gió, cải tử hoàn sinh, và biến hóa sự vật theo ý muốn. Cô đã từng nhiều lần hiển linh để trừ gian diệt ác, cứu khổ cứu nạn, và ban tài lộc cho nhân dân, giúp nhiều vùng đất có cuộc sống thịnh vượng và bình yên.

Thờ phụng của Cô Bé Thoải Cung có nhiều nơi trên khắp cả nước, nhưng đền thờ Cô Bé Thoải Cung tại Bơ Bông, Hà Trung, Thanh Hóa, được biết đến nhiều nhất trong dân gian.